VHSG- Từ khi có thơ đăng báo ở Hà Nội những năm 1930, bút danh Tú Mỡ rất hấp dẫn bạn đọc. Tú Mỡ tên khai sinh là Hồ Trọng Hiếu, sinh ngày 14-3-1900. Họ Hồ của ông là một chi của họ Hồ ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, quê của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, chuyển ra sống ở Hà Nội đã ba đời.
Da nó xù xì múi nó dày. Quân tử có ‡ thương thì đóng cọc, ‡ Xin đừng mân mó ‡ nhựa ra tay. - Bản Xuân Hương thi sao. Vịnh quả mít. ‡ Của tôi như quả mít trên cây, Da nó xù xì múi nó dày. Quân tử có yêu ‡ thì đóng cọc, ‡ Xin đừng mân mó ‡ nhựa ra tay.
- Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương được xem là hiện tượng độc đáo của văn học trung đại: nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ; thơ bà là thơ trào phúng mà trữ tình, đặc biệt đậm tính dân tộc từ đề tài, cảm hứng, đến ngôn ngữ, hình tượng.
Bìa cuốn Lưu hương ký. Hồ Xuân Hương có tập Lưu hương ký nổi tiếng với nhiều bài thơ khác được viết bằng chữ Nôm và chữ Hán. Sau này bà tập trung sáng tác với chữ Nôm và tính đến nay, thi sĩ đã để lại cho đời hơn 150 tác phẩm có giá trị. Ðề tựa cho thi tập
Nét độc đáo nhất trong thơ Hồ Xuân Hương là giọng điệu mỉa mai, trào phúng. Có thể nói, trào phúng là nghệ thuật độc đáo trong thơ Hồ Xuân Hương. Giọng điệu này được thể hiện khi nữ sĩ phê phán, đả kích giai cấp phong kiến thống trị.
. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ––––––––––––––––––––– ĐÀM THỊ ĐÀO THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG LUẬN VĂN THẠC LUẬN SĨVĂN NGÔN THẠC NGỮSĨVÀ VĂN VĂN HỌC HÓA VIỆT NAM Thái Nguyên - 2015 Thái Nguyên - 2015 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ––––––––––––––––––––– ĐÀM THỊ ĐÀO THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG Chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGÔ GIA VÕ Thái Nguyên - 2015 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học “Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương” với các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác, hoàn toàn là công trình nghiên cứu của tôi. . Tác giả luận văn Đàm Thị Đào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN i Lời cảm ơn Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn - Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại học Trường Đại học Sư Phạm - Đại học Thái Nguyên. - Các thầy, cô giáo ở Viện Văn học, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, Trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt khoá học. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Ngô Gia Võ, người đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình viết luận văn. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả luận văn Đàm Thị Đào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN ii MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan………………………………………………………………......i Lời cảm ơn…………………………………………………………………....ii Mục lục…………………………………………………………………….....iii MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................... 6 4. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................... 6 5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 7 6. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 7 7. Cấu trúc luận văn................................................................................................ 8 8. Đóng góp của đề tài............................................................................................ 9 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...........................................................10 Một số khái niệm liên quan đến đề tài ..........................................................10 Thơ tứ tuyệt ................................................................................................10 Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng .....................................................................15 Những tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội tạo nên hiện tượng Hồ Xuân Hương ...........18 trí Hồ Xuân Hương trong dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng và trong văn học trào phúng thời trung đại ........................................................................20 Quy mô, số lượng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương ...............27 Chƣơng 2. THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG .........................................................30 Hệ thống đề tài ..............................................................................................30 Đối tượng, nội dung trào phúng ....................................................................33 Tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho người phụ nữ ...............33 Những vấn đề xã hội ..................................................................................45 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN iii Mục đích, ý nghĩa trào phúng .......................................................................53 Chƣơng 3. THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ..................................................56 Ngôn ngữ trào phúng.....................................................................................56 Mối quan hệ giữa ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương với văn học dân gian .........56 Ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, tài hoa........................................................62 Nghệ thuật cái “tục” ......................................................................................67 Các ý kiến bàn về vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương .................67 Số lần xuất hiện, trường hợp xuất hiện cái tục...........................................70 Cái tục với ý nghĩa phê phán, châm biếm, đả kích cường quyền và thần quyền phong kiến .................................................................................................73 Cái tục với ý nghĩa khẳng định khát vọng tự nhiên, ca ngợi hạnh phúc trần tục, đòi tự do và giải phóng con người. ...............................................................76 KẾT LUẬN .........................................................................................................80 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................84 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN iv MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Văn học Việt Nam ra đời trong khi văn học Trung Quốc đã có một bề dày phát triển. Tuy nhiên, cha ông ta đã cố gắng vượt qua sự ràng buộc của ngôn ngữ Hán bằng cách tạo ra một văn tự mới chữ Nôm. Từ thể loại thơ Đường luật chữ Hán, ông cha ta đã vận dụng và chuyển hóa thành hình thức sáng tác bằng ngôn ngữ dân tộc là thơ Nôm Đường luật. Việt Nam là quốc gia có vị trí địa lý nằm gần hai cái nôi văn minh lớn của nhân loại Ấn Độ và Trung Quốc. Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông lại càng có ý nghĩa. Ở Việt Nam, từ thế kỷ thứ X trở về sau, nhân tài được lựa chọn qua thi cử ngày càng nhiều. Khoa thi ở các triều đại Lý, Trần, Lê… sĩ tử đều có những bài liên quan đến thơ, mà thơ Đường luật là chính. Bằng con đường như thế, thơ Đường luật xuất hiện ngày càng nhiều trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam. Từ thế kỷ XIII, chữ Nôm đã xuất hiện nhưng theo các tài liệu hiện có phải đến thế kỷ XV, trở thành ngôn ngữ văn học. Thể thơ Đường luật ở Trung Quốc thường gắn liền với những nội dung trang trọng, chính thống theo quan điểm “Thi dĩ ngôn chí” nhưng khi cha ông ta dùng chữ Nôm để sáng tác theo thể thơ này, đã đưa vào đó những vấn đề mới mẻ như nội dung trào phúng, những tình cảm đời thường, bình dị, những vấn đề dân dã của thôn quê… Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi thấy bộ phận thơ Nôm Đường luật trào phúng đã xuất hiện từ sáng tác của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và các tác giả thời Hồng Đức, kéo dài cho đến hết thời kỳ trung đại, tạo thành một dòng chảy riêng biệt, có những đóng góp độc đáo cả về phương diện nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật. Đây là một thể thơ góp phần quan trọng vào sự phát triển của văn học dân tộc. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào chuyên sâu về thơ tứ tuyệt trào phúng. Việc đi sâu vào tìm hiểu hiện tượng Hồ Xuân Hương với dòng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng chính là mục đích của đề tài. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 1 Tứ tuyệt là một thể thơ được coi là “cao diệu” trong thơ Đường đồng thời cũng là mảng thơ thành công nhất của Hồ Xuân Hương. Điều thú vị là, trước Hồ Xuân Hương, rất hiếm tác giả Việt Nam dùng thể thơ tứ tuyệt để trào phúng. Hồ Xuân Hương thì ngược lại. Đây là một sự phát triển mang tính đột biến trong dòng thơ Nôm Đường luật ở nước ta. Hơn nữa, thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương với những giá trị độc đáo cho đến nay vẫn chưa được khảo cứu, đánh giá toàn diện, kỹ càng. Vì vậy, mảng thơ này rất xứng đáng trở thành đối tượng nghiên cứu cho những ai đã từng tâm huyết với thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương nói riêng và thơ Nôm Đường luật nói chung. Hồ Xuân Hương đã từng được Xuân Diệu mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”. Sáng tác thơ Nôm của bà đánh dấu quá trình phát triển rực rỡ của thể loại thơ Nôm Đường luật, khẳng định một bước tiến quan trọng của ngôn ngữ thơ ca dân tộc. Và điều đáng chú ý là trong sáng tác của Hồ Xuân Hương, bộ phận trào phúng có vị trí độc đáo và tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nữ sĩ. Đây là một tác giả khá quen thuộc được giảng dạy trong chương trình văn học nhà trường. Do đó, tìm hiểu thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng của Hồ Xuân Hương sẽ có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn đối với người giáo viên văn học. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Những vấn đề liên quan đến Hồ Xuân Hương Cuộc đời, thân thế, sự nghiệp và văn bản tác phẩm Trước Cách mạng tháng Tám, Hồ Xuân Hương được khẳng định là một tác gia văn học, tác giả của nhiều bài thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng. Điều này được khẳng định qua những tác phẩm Hồ Xuân Hương – tác phẩm, thân thế và văn tài của Nguyễn Văn Hanh, Việt Nam văn học sử yếu và Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm, Giai nhân dị mặc của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nam thi hợp tuyển của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc… Sau Cách mạng, đặc biệt là sau 1954, trong Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam của nhóm tác giả Lê Trí Viễn, Phan Côn, Đặng Thanh Lê, Phạm Luận, Lê Hoài Nam, Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XVIII – nửa cuối thế kỷ XIX của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 2 Nguyễn Lộc, Lịch sử văn học Việt Nam của nhiều tác giả, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX của nhóm tác giả Đặng Thanh Lê, Phạm Luận, Hoàng Hữu Yên…đều khẳng định rằng có một tác giả Hồ Xuân Hương với những bài thơ Nôm tứ tuyệt. Tuy nhiên, việc chọn những bài thơ Hồ Xuân Hương vẫn chưa có sự thống nhất ở các công trình nghiên cứu. Nghiên cứu về thân thế, cuộc đời và văn bản tác phẩm Hồ Xuân Hương bắt đầu có những biến đổi, phát triển vượt bậc từ khi nhà nghiên cứu văn học Trần Thanh Mại cho đăng một loạt bài trên Tạp chí văn học như Phải chăng Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ chữ Hán, Trở lại vấn đề Hồ Xuân Hương, Bản "Lưu Hương ký" và lai lịch phát hiện của nó,… Sau đó xuất hiện hàng loạt bài của các tác giả khác tiếp tục tranh luận, đi sâu vào vấn đề tiểu sử và văn bản tác phẩm của Hồ Xuân Hương như Tảo Trang, Nam Trân, Đào Thái Tôn,... Đặc biệt chú ý là hai công trình nghiên cứu của tác giả Đào Thái Tôn là Hồ Xuân Hương – từ cội nguồn vào thế tục và Hồ Xuân Hương – tiểu sử, văn bản, tiến trình huyền thoại dân gian hóa. Trong những bài viết của mình, Đào Thái Tôn đã tổng kết khá hệ thống tất cả những vấn đề có liên quan đến tiểu sử và văn bản thơ Hồ Xuân Hương, đã góp phần khẳng định Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ chữ Hán và lập luận đầy thuyết phục về tiểu sử của bà, đi tới kết luận bà là con của Hồ Sỹ Danh, em của Hồ Sỹ Đống. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một quan điểm thống nhất về văn bản thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương, mỗi tác giả vẫn lựa chọn cho mình một quan điểm khác biệt. Giá trị nội dung tƣ tƣởng trong thơ Hồ Xuân Hƣơng Các công trình nghiên cứu đều khẳng định và đánh giá rất cao giá trị nhân văn của thơ Hồ Xuân Hương, đều tập trung làm nổi bật ý thức chống phong kiến, khát vọng đời sống tự nhiên, giá trị nhân đạo của thi phẩm Hồ Xuân Hương. Tiêu biểu cho các công trình ấy là Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và giáo dục của Văn Tân, phần viết về Hồ Xuân Hương trong Các nhà thơ cổ điển Việt Nam của Xuân Diệu, Hồ Xuân Hương – tác phẩm, thân thế và văn tài của Nguyễn Văn Hanh, Một bức thư của Chế Lan Viên, Góp thêm một tiếng nói Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 3 trong việc đánh giá thơ Hồ Xuân Hương, hay trong Văn nghệ bình dân Việt Nam của tác giả Trương Tửu… Tuy có những ý kiến đối lập nhau nhưng đều thừa nhận thơ Hồ Xuân Hương có giá trị nội dung tư tưởng đặc sắc, có sức sống lâu bền với thời gian. Giá trị nghệ thuật của thơ Hồ Xuân Hƣơng Nhiều bài viết và công trình nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu giá trị nghệ thuật trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Tài năng nghệ thuật của bà đã được khẳng định và đánh giá rất cao trong nền văn học dận tộc từ xưa đến nay. Tiêu biểu là các công trình Hồ Xuân Hương – tác phẩm, thân thế và văn tài của Nguyễn Văn Hanh, đến Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm,… Càng về sau, vấn đề nghệ thuật trong thơ bà càng được nghiên cứu nhiều hơn. Trên thực tế, Lê Tâm là người đầu tiên phong cho Hồ Xuân Hương danh hiệu “Bà chúa thơ Nôm” trong Thân thế và thi ca Hồ Xuân Hương – Bà chúa thơ Nôm. Sau đó, bằng năng lực cảm thụ tinh tế, bằng sự hiểu biết sâu sắc văn hóa trung đại và kinh nghiệm sáng tạo thơ của mình, Xuân Diệu đã phân tích và khẳng định Hồ Xuân Hương là một trong “ba thi hào dân tộc” lớn, có vị trí xứng đáng trên thi đàn trung đại. Khi nghiên cứu giá trị nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương, một số tác giả đã đi sâu vào mối quan hệ chặt chẽ giữa thơ Hồ Xuân Hương và văn học dân gian. Tiêu biểu là bài viết của tác giả Đặng Thanh Lê Hồ Xuân Hương – bài thơ "Mời trầu", cộng đồng truyền thống và cá tính sáng tạo trong mối quan hệ văn học dân gian và văn học viết và bài viết của Nguyễn Đăng Na Thơ Hồ Xuân Hương với văn học dân gian... Trong các công trình nghiên cứu đó, Nguyễn Đăng Na đã chứng minh được rằng Hồ Xuân Hương đã “nghĩ cái nghĩ dân gian, cảm cái cảm dân gian”[28, Ở một khía cạnh khác, tác giả Đỗ Đức Hiểu trong Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương đã đi sâu vào khám phá nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương như một thế giới nghệ thuật với hệ thống hình ảnh, hình tượng và những trạng thái, tính chất riêng, độc đáo nói lên một cá tính sáng tạo rất Xuân Hương trong lịch Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 4 sử thơ ca trung đại Việt Nam. Tâm lý sáng tạo của Hồ Xuân Hương cũng đã được Nguyễn Hữu Sơn tìm hiểu trong Tâm lý sáng tạo trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương, trong công trình đó, tác giả đã lý giải tư duy nghệ thuật đặc sắc của một người phụ nữ luôn ý thức về thân phận mình. Trong giới hạn nghiên cứu giá trị nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương, từ đầu thế kỉ XX đến nay, giới nghiên cứu Việt Nam ngày càng đi sâu hơn vào bản chất nghệ thuật phong phú và đặc sắc trong thơ nữ sĩ ở tất cả các phương diện như thể loại, bút pháp, thi pháp, cá tính sáng tạo, tài nghệ ngôn ngữ…. Các thành tựu nghiên cứu đó đều góp phần khẳng định nghệ thuật độc đáo của “Bà chúa thơ Nôm” trong nền thơ dân tộc. Vấn đề trào phúng trong thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng Trong các công trình nghiên cứu về Hồ Xuân Hương, chúng ta nhận thấy vấn đề trào phúng được coi là một đóng góp quan trọng của nữ sĩ vào lịch sử văn học. Thơ tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương chiếm số lượng nhiều nhất, là bộ phận có giá trị nhân đạo sâu sắc nhất trong thơ Nôm của bà. Vì vậy, hầu như tất cả các bộ lịch sử văn học đều khẳng định bà trong tư cách một nhà thơ trào phúng vào loại xuất sắc nhất của dân tộc. Một trong những tác giả đầu tiên nghiên cứu về Hồ Xuân Hương trong mối quan hệ với dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng Việt Nam là Giáo sư Đặng Thanh Lê. Trong công trình Hồ Xuân Hương và dòng thơ Nôm Đường luật, tác giả “đã đặt những sáng tác của bà trong sự phát triển của “Dòng thơ Nôm Đường luật”, phác họa một số nét cơ bản trong sự vận động của thể loại, đồng thời nêu bật những đóng góp của Hồ Xuân Hương về cảm hứng và biện pháp nghệ thuật” [22, Tác giả Nguyễn Sĩ Đại cũng đã đề cập đến Hồ Xuân Hương ở công trình Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường. Chúng tôi sẽ tiếp cận Hồ Xuân Hương với tư cách một tác gia trào phúng từ góc độ thể loại thơ Nôm Đường luật, đặc biệt là bộ phận thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng để thấy được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của bà đối với sự phát triển của thể loại thơ Nôm Đường luật nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng nói riêng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 5 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Tập hợp những bài thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương và nghiên cứu đặc điểm của chúng trên hai phương diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật qua một số vấn đề như đề tài, đối tượng, nội dung, mục đích và thái độ trào phúng; bút pháp và ngôn ngữ nghệ thuật trào phúng; trong quá trình đó có so sánh thơ Hồ Xuân Hương với thơ của các nhà thơ trước. Từ đó, luận văn sẽ đi tới khẳng định vai trò của Hồ Xuân Hương trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc. Phân tích hệ thống thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương ở khía cạnh nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật qua một số vấn đề như đề tài, đối tượng, nội dung, mục đích, thái độ trào phúng, bút pháp và ngôn ngữ nghệ thuật trào phúng,…Qua đó, luận văn sẽ làm sáng tỏ tài năng nghệ thuật và cá tính sáng tạo độc đáo của bà, tạo ra bước phát triển mới về chất lượng nghệ thuật trong dòng thơ Nôm Đường luật Việt Nam. Trên cơ sở tập hợp và phân tích những tác phẩm thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng của Hồ Xuân Hương, luận văn sẽ góp phần khẳng định được vị thế độc đáo của Hồ Xuân Hương trong tiến trình phát triển của thơ ca dân tộc. Hồ Xuân Hương là người mở đầu cho thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Việt Nam và đã đưa thể thơ này đến đỉnh cao về giá trị tư tưởng cũng như giá trị nghệ thuật. 4. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu trọng tâm của luận văn là thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương có rất nhiều văn bản, như Xuân Hương thi tập, XNB Xuân Lan, 1913, Hồ Xuân Hương thơ và đời của Lữ Huy Nguyên và hàng trăm các văn bản khác. Tuy nhiên, chúng tôi chọn văn bản Thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo dục, H, 1982 làm văn bản nghiên cứu chính. Đây là văn bản chọn các bài thơ theo “phong cách nghệ thuật Hồ Xuân Hương”, gồm 40 bài. Văn bản này của Nguyễn Lộc có số lượng không quá ít nhưng cũng không quá nhiều, lại là những bài thơ khá phổ biến, xuất hiện ở nhiều tuyển tập thơ Hồ Xuân Hương và đã tồn tại hơn 30 năm nay, được giới Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 6 nghiên cứu văn học thừa nhận và sử dụng khá rộng rãi. Tất nhiên, trong quá trình tìm hiểu, rất có thể chúng tôi vẫn phải mở rộng những liên hệ của mình ra các văn bản khác để kết quả nghiên cứu có thêm sức thuyết phục. Ngoài ra có sự so sánh với một số văn bản khác như Xuân Hương thi tập, NXB Xuân Lan, 1913; Quốc văn tùng ký của Hải Châu Tử Nguyễn Văn San; Hồ Xuân Hương thơ và đời của Lữ Huy Nguyên; Hồ Xuân Hương – tiểu sử, văn bản, tiến trình huyền thoại dân gian hóa của Đào Thái Tôn… 5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Về phạm vi nghiên cứu, luận văn xác định một số khái niệm thơ tứ tuyệt, thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng… là những khái niệm có vị trí quan trọng trong việc xử lý đề tài. Trong khi nghiên cứu thơ Nôm Đường luật trào phúng nói chung, thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng nói riêng, cần phân biệt được hai vấn đề về mức độ trào phúng là yếu tố trào phúng và tác phẩm trào phúng. Trên cơ sở đó, người viết sẽ nghiên cứu thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương ở khía cạnh nội dung với hệ thống đề tài; đối tượng, nội dung và mục đích, ý nghĩa trào phúng và khía cạnh nghệ thuật với ngôn ngữ trào phúng; nghệ thuật cái tục. 6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phƣơng pháp thống kê, phân loại Phương pháp này sẽ cho người viết một cái nhìn tổng thể về số lượng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương. Việc thống kê, phân loại này càng đầy đủ, chi tiết, khoa học, càng tạo ra những cơ sở xác thực cho các luận điểm của đề tài. Trên cơ sở thống kê, người viết xếp riêng những bài thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng để làm cứ liệu phân tích, đánh giá. Trong quá trình thống kê phân loại, người viết phải tham khảo, học tập ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu để việc khẳng định các bài thơ tứ tuyệt trào phúng thêm chính xác. Tuy nhiên, quan điểm về thơ tứ tuyệt trào phúng rất đa dạng nên có thể thống kê của chúng tôi sẽ không tránh khỏi những sai sót. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 7 Đơn vị thống kê sẽ là những bài thơ có yếu tố trào phúng, người viết sẽ chỉ ra những câu thơ trào phúng để tiện theo dõi và đánh giá. Còn cả bài thơ được viết với mục đích trào phúng, xây dựng được một hình tượng trào phúng hoàn chỉnh thì đương nhiên có mặt trong bản thống kê, phân loại của chúng tôi. Thống kê, phân loại những bài thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương theo tiêu chí và nội dung nghiên cứu của đề tài sẽ giúp cho quá trình nghiên cứu có cơ sở dữ liệu về văn bản, tránh những khái quát mang tính võ đoán, suy biện. Phƣơng pháp phân tích tổng hợp Đánh giá khảo sát toàn bộ những tư liệu thống kê, phân tích các dẫn chứng, rút ra những kết luận khoa học về thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng. Với việc phân tích này, người viết tiến hành đồng thời cả hai phương diện phân tích đặc điểm nội dung tư tưởng và phân tích hình thức nghệ thuật của bài thơ, câu thơ. Sau khi phân tích, chỉ ra những đặc điểm của từng tác giả, luận văn sẽ tổng hợp và đánh giá khái quát vấn đề, rút ra những luận điểm khoa học chính. Phƣơng pháp so sánh đối chiếu Luận văn sẽ tiến hành so sánh đối chiếu trên các phương diện sau + So sánh thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương với thơ Nôm Đường luật trữ tình của bà. + So sánh phong cách nghệ thuật, đóng góp về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương với các tác giả khác, đặc biệt là các tác giả trước đó như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm. + So sánh đặc trưng thể loại thơ Hồ Xuân Hương với các yếu tố và thể loại trào phúng trong văn học dân gian. 7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương Chương 1 Những vấn đề chung. Một số khái niệm liên quan đến đề tài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 8 Những tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội tạo nên hiện tượng Hồ Xuân Hương Vị trí Hồ Xuân Hương trong dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng và trong văn học trào phúng thời trung đại Quy mô, số lượng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương Chương 2 Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương nhìn từ phương diện nội dung. Hệ thống đề tài Đối tượng, nội dung trào phúng Mục đích, ý nghĩa trào phúng Chương 3 Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương nhìn từ phương diện nghệ thuật Ngôn ngữ trào phúng Nghệ thuật cái “tục” 8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI + Đề tài được hoàn thành sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương, một mảng thơ quan trọng trong việc khẳng định cá tính sáng tạo và vị thế Hồ Xuân Hương trong tiến trình thơ ca dân tộc. + Trên cơ sở phân tích giá trị nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương, luận văn sẽ trở thành một tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên và giáo viên văn học phổ thông. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 9 PHẦN NỘI DUNG CHÍNH Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG Thơ tứ tuyệt ra đời từ bao giờ? Hiện nay vẫn có nhiều ý kiến bàn luận về vấn đề này. Có nhiều ý kiến cho rằng thơ tứ tuyệt có mầm mống từ Kinh thi ra đời cách đây năm, vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, có một số ý kiến lại cho rằng thơ tứ tuyệt xuất hiện từ thời Lục Triều 281 – 618. Tứ tuyệt không những đạt được thành tựu rực rỡ ở đời Đường mà còn có sinh mệnh lâu dài vào bậc nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc cũng như trong lịch sử văn học một số nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Ở những nước khác, tuy không có tên gọi là “tứ tuyệt” song cũng có những loại hình tương tự. Bởi vậy, việc nêu ra những đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường không chỉ góp phần làm sáng tỏ thêm vẻ đẹp của một hiện tượng độc đáo của thơ ca Trung Quốc mà còn cung cấp được những nhận định, tư liệu có thể làm căn cứ so sánh, tham khảo để tìm hiểu thêm những hiện tượng cùng loại hình, để xử lý một số vấn đề của lý luận và thực tiễn của thơ ca hiện nay. “Tứ tuyệt! Tứ tuyệt là một thể thơ rất khó, phải tập trung, hàm súc và cần có một sáng tạo gì như là một sự bất ngờ, một uẩn khúc, trong bốn câu” [7, Do hạn chế về số chữ, nhất định thơ Nôm tứ tuyệt nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng nói riêng không thể đi vào miêu tả chi tiết hiện thực, không thể trình bày sự việc một cách có đầu có cuối theo trình tự thời gian. Thiên về khái quát, nó là một tất yếu. Nhưng sự khái quát không thể bắt đầu từ chủ quan. Vì vậy, thơ tứ tuyệt ngoài lựa chọn loại sự vật để phản ánh còn phải chọn nét tiêu biểu nhất mang tính bản chất của sự vật đó. Hiện thực trong thơ tứ tuyệt phải bảo đảm được tính chất của một tiểu vũ trụ. Một số khái niệm liên quan đến đề tài Thơ tứ tuyệt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 10 Ở Việt Nam chúng ta, từ khi có văn học viết là đã có ngay thơ tứ tuyệt. Ban đầu, chúng ta phải sáng tác bằng chữ Hán cho nên thơ tứ tuyệt luật Đường đã xuất hiện ngay từ thế kỷ X. Khái niệm thơ tứ tuyệt vì vậy cũng đã được nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam quan tâm. Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong cuốn Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại, nghĩa chữ “tứ tuyệt” ở đây gồm 4 câu cắt ra từ một bài bát cú. Có bốn cách cắt + Cắt bốn câu trên, thành ra bài thơ ba vần, hai câu trên không đối nhau, hai câu dưới đối nhau. Ví dụ XUÂN Khí trời ấm áp đượm hơi dương Thấp thoáng lâu dài vẻ ác vàng Rèm liễu líu lo oanh hót hót gió, Giậu hoa phấp phới bướm chân hương. Khuyết danh – Phỏng dịch thơ chữ Hán của bà Ngô Chi Lan + Cắt bốn câu giữa, thành ra bài thơ hai vần, bốn câu đều đối nhau. Ví dụ KHI TẦU CẬP BẾN Gió đưa dương liễu cành cành nguyệt Cụm tỏa ngô đồng lá lá sương Thuyền mọn năm canh người bãi Hán Dịch dài một tiếng khách Tầm dương. Phan Thanh Giản + Cắt hai câu dưới, thành ra bài thơ hai vần, hai câu đầu đối nhau, hai câu dưới không đối. Ví dụ ĐỜI NGƢỜI Người hết danh không hết Đời còn việc vẫn còn Tội gì lo tính quẫn, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 11 Lập những cuộc con con. Khuyết danh + Cắt hai câu đầu, hai câu cuối, thành ra bài thơ ba vần, cả bốn câu không đối. Ví dụ TRỜI NÓI Cao cao muôn trượng ấy là tao Dẫu pháo thăng thiên chả tới nào Nhắn nhủ dưới trần cho chúng biết Tháng ba, tháng tám tớ mưa rào. Nguyễn Khuyến Giáo sư Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu khẳng định “Tứ nghĩa là bốn, tuyệt nghĩa là dứt, ngắt. Lối này gọi thế vì thơ tứ tuyệt là ngắt lấy bốn câu trong bài bát cú mà thành”. Rồi ông dẫn ra năm cách ngắt khác nhau + Ngắt bốn câu trên Thấy dân rét mướt nghĩ mà thương Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường Tay ngọc lăn đưa thoi nhật nguyệt Gót vàng dậm đạp máy âm dương. Lê Thánh Tông + Ngắt bốn câu dưới Vắt vẻo sườn non Trao Lơ thơ mấy ngọn chùa Hỏi ai là chủ đó Có bản tớ xin mua. Vô danh + Ngắt hai câu đầu, hai câu cuối Những lúc say sưa cũng muốn chừa Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa Hay ưa nên nỗi không chừa được Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa. Nguyễn Khuyến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 12 +Ngắt bốn câu giữa Lởm chởm gừng vài khóm Lơ thơ tỏi mấy hàng Vẻ chi là cảnh mọn Mà cũng đến tang thương. Nguyễn Gia Thiều + Ngắt câu 1+ 2 và 5 + 6 Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi Tép miệng năm ba con kiến gió Nghiến răng chuyển động bốn phương trời. Lê Thánh Tông Tác giả Trần Trọng Kim và Trần Đình Sử cũng theo quan điểm này. Giáo sư Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong Thơ ca Việt Nam – hình thức và thể loại cho rằng … “Như vậy, thơ Đường luật hoặc cũng gọi một cách khái quát, thơ cách luật, là thể thơ được đặt ra từ đời Đường…có ba loại ngũ ngôn, lục ngôn và thất ngôn. Thơ cách luật chia làm ba thể thể tiểu luật gọi là tuyệt cú Việt Nam gọi là tứ tuyệt,…thể luật thi gọi là bát cú…” [31, Hai ông cũng đã giải thích thêm về thơ tứ tuyệt như sau + Tuyệt có nghĩa là cắt ra từ bài bát cú. + Tuyệt cũng là cắt, là đứt, nhưng là đứt câu, dừng bút để trọn ý cho một bài, sau khi viết câu thứ tư. Bởi vì một câu chưa thành thơ; hai câu mới thành một vế đối liên, ít nhất bốn câu mới có vần, khi đó mới thành một bài thơ. Theo nhà biên dịch thơ Đường, Trần Trọng Kim “Thơ tuyệt cú là lối thơ làm bốn câu hai ba vần…” [18, Theo Đào Thái Sơn trong Khái luật về thơ tứ tuyệt thì cách hiểu của các vị trên đây về thơ tứ tuyệt coi như là cơ bản được nhiều người chấp nhận nhất. Bên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 13 cạnh đó thì một số người lại giải thích bằng một cách hiểu khác. Theo Bùi Kỷ viết trong Quốc văn cụ thể “Tuyệt là tuyệt diệu, mỗi câu chiếm một vị trí đặc biệt. Chỉ trong bốn câu mà thiền thâm, ẩn hiển, chinh kỳ, khởi phục đủ cả cho nên gọi là tuyệt” [20, Còn nhà nghiên cứu Lạc Nam Phan Văn Nhiễm trong Tìm hiểu các thể thơ “Thơ bốn câu gọi là tứ tuyệt, người Trung Quốc gọi là tuyệt cú, tức là bài thơ hay tuyệt vời, vì chỉ có bốn câu 20 từ hoặc 28 từ mà nói lên được đầy đủ ý tứ của một đề tài theo đúng luật lệ của thơ Đường”[29, Có thể nói các nhà nghiên cứu ai cũng có lý do cho cách phân tích biện giải của mình. Điều đó càng chứng tỏ sự phong phú, phức tạp và rất kỳ diệu của thơ tứ tuyệt. Nếu theo cách hiểu thứ nhất thì ta có một số cách cắt bốn câu của một bài bát cú thành một bài tứ tuyệt theo niêm luật của một bài bát cú. Nếu hiểu thơ tứ tuyệt theo cách hiểu thứ hai và mở rộng thêm thì một bài thơ không dứt khoát phải làm theo cổ tuyệt hay luật tuyệt mới gọi là Nôm tứ tuyệt, mà chỉ cần một bài thơ Nôm ngắn có bốn câu làm theo thể thơ gì cũng được, miễn hay là tứ tuyệt. Cách hiểu này không phải không có lý mà còn có sự thông thoáng, mở rộng. Một bài thơ tứ tuyệt hay phải lựa chọn được những khoảnh khắc dồn nén của đời sống tinh thần, những hiện thực của tâm trạng, những phút thăng hoa của tâm linh…Phải dồn nén biểu cảm để tính khái quát của triết lý đạt tới cao độ. Còn theo như PGS. TS Lê Lưu Oanh và Ths Định Thị Nguyệt trong Thơ tứ tuyệt trong truyền thống văn hóa phương Đông thì thơ tứ tuyệt là một thể loại kết tinh được khá nhiều nét độc đáo của những giá trị tinh thần văn hóa phương Đông. Tứ tuyệt là một chỉnh thể vi mô toàn vẹn, số 4 trong quan niệm của nhân loại là một con số hoàn thiện nhất. Quy luật đối lập âm dương, đảm bảo cân bằng âm dương qua việc phối hợp các thanh bằng – trắc, các nhịp chẵn lẻ tạo thành một cấu trúc có quy luật với những quan hệ nội tại chặt chẽ, làm một bài tứ tuyệt dù rất nhỏ nhưng đảm bảo là một cấu trúc hình thức hoàn chỉnh cân xứng, nhịp nhàng, chặt chẽ, khó phá vỡ [36, Chính vì con số 4 chứa đựng được cả vũ trụ nên bài thơ tứ tuyệt được coi là một tổng thể toàn vẹn mang tính Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN 14
Ngày đăng 18/12/2015, 1131 MỤC LỤC MỞ ĐẦU Lí chọn đề tài Hồ Xuân Hương tượng văn học thấy văn học Việt Nam Không tài hoa xuất chúng mà thơ văn lẫn đời bà làm tốn không nhiều giấy mực giới nghiên cứu Giáo sư Lê Đình Kỵ bàn Hồ Xuân Hương có câu nhận xét sau “Thơ Xuân Hương vốn xa lạ với lối đại ngôn kiểu đó, mà bình dị, tự nhiên - khí mà huyết khí, với khí chất riêng mình” Chính mang cốt cách riêng, khí khái riêng mà ẩn chứa thơ Xuân Hương sức sống tiềm tàng mãnh liệt, chực chờ tuôn trào câu chữ thứ tạo nên cốt cách riêng ấy, nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hương Mục đích nghiên cứu Việc tìm hiểu kỹ nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hương giúp hình dung rõ nét người cá tính thơ bà, đồng thời hiểu lý thơ văn Hồ Xuân Hương lại có giá trị to lớn đến văn học nước nhà Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu đề tài nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hương Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu đề tài xoay quanh tác phẩm thơ Hồ Xuân Hương Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích – tổng hợp Phương pháp liệt kê Phương pháp so sánh… NỘI DUNG CHƯƠNG I KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG VÀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Khái niệm “Trào phúng” “Trào phúng” thân từ Hán - Việt Nếu tách riêng chữ “trào” cười cợt, chế giễu; “phúng” lời bóng gió để châm biếm, đả kích Nghệ thuật trào phúng cách thức dùng ngôn từ ví von, bóng gió để châm biếm, đả kích thói hư tật xấu trái với lương tri, đạo đức xã hội Người ta thường chia trào phúng thành ba loại chính loại khôi hài, cười cợt; loạt phê phán, đả kích loại châm biếm chế giễu Đặc trưng thơ trào phúng yếu tố gây cười, yếu tố hài hước văn thể mặt nội dung lẫn hình thức ta cảm nhận rõ điều thơ Hồ Xuân Hương Đối tượng trào phúng thơ Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương nhìn ung nhọt xã hội đưa vào thơ mình, tiếng chửi bà cất lên đầy khiến người nghe phải cười thích thú Đối tượng lên án bà đa dạng có đặc điểm chung tên “bụng đầy kinh sách” hay hạng “quyền cao chức trọng” lúc cao Đó tên công tử nhà giàu hợm hĩnh, ham ghẹo gái lại võ vẽ làm thơ, lại thích đề thơ trước cửa đền, chùa khoe mẽ “Dắt díu lên đến cửa chiền, Cũng đòi học nói, nói không nên Ai nhắn bảo phường lòi tói, Muốn sống, đem vôi quét trả đền” Bọn Đồ Dốt Bà truy tận gốc lũ hại dân, hại nước không chừa ai, kể lũ vua chúa , quan lại, hiền nhân quân tử cho có sứ mạng truyền bá, hành xử đạo lí thánh hiền, giữ gìn kỉ cương xã hội người thật chúng không hám danh, hám lợi mà đam mê tửu sắc “Hồng hồng má phấn duyên cậy Chúa dấu vua yêu này” Vịnh quạt Nếu với tầng lớp vua chúa, quan lại bà chửi thẳng vào thói háo sắc thích “giả vờ” với đám quan thị, bà đánh vào sống trái lẽ tự nhiên bọn chúng “Quan thị” Ngoài ra, sư sãi đối tượng nhắc đến không lần thơ Xuân Hương Trong xã hội rối ren, nhà chùa không giữ vẻ trang nghiêm, thành kính vốn có mà thay vào tên sư vô lại, lợi dụng nơi tu hành để thực hành vi giả dối đồi bại “Sư hổ mang”, “Chùa Quán Sứ”, “Cái kiếp tu hành”… Tuy nhắc đến nhiều trọng tâm “anh hùng quân tử”, Xuân Hương không bỏ qua tên đàn ông bạc tình bạc nghĩa, xem tình cảm cô gái ngây thơ trò chơi để “no xôi chán chè”, chúng thẳng tay rũ bỏ “Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc, Phận liễu đà nảy nét ngang Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? Mảnh tình khối thiếp xin mang” Không chồng mà chửa Trào phúng thơ Xuân Hương thể nhiều cung bậc cảm xúc khác Hả có, thích thú có đắng cay có, chua xót nhiều Tiếng cười mang ý nghĩa sâu sắc ẩn chứa phản kháng mạnh mẽ, liệt không trào phúng, thơ Hồ Xuân Hương đậm đà chất trữ tình đặc sắc CHƯƠNG II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Khắc họa hình tượng nhân vật, chủ thể điệu bộ, cử chỉ, tính cách Để góp phần tạo nên thành công việc xây dựng nghệ thuật trào phúng, không nhắc đến tài khắc họa hình tượng nhân vật Hồ Xuân Hương Bà phác nên nét riêng cho nhân vật cách giản đơn, dung dị mà chẳng cần miêu tả ngoại hình từ ngữ, câu thơ dài dòng Bà khéo léo thổi hồn vào nhân vật thông qua biểu lộ thái độ thân “Khéo khéo đâu lũ ngẩn ngơ Lại cho chị dạy làm thơ” Ong non ngứa nọc châm hoa rữa Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa!” Lũ ngẩn ngơ Trong “Giai thoại văn học Việt Nam” có ghi chép, ngày kia, Hồ Xuân Hương thăm chùa Trấn Quốc về, bà lững thững bên bờ hồ Tây có vài tên thầy khóa rảo theo sau, giở giọng chữ nghĩa hòng ghẹo Xuân Hương lặng thinh không nói, đến nghe thứ “thơ thẩn” nửa mùa ấy, không chịu được, bà quay lại đọc dồn cho chúng cho thơ Chỉ với từ “ngẩn ngơ” câu phác họa toàn dáng vẻ tên văn sĩ nửa mùa hay Chúng mang tiếng chữ nghĩa đầy chẳng khác “lũ ngẩn ngơ”, gì, để cô gái trẻ phải “dạy” lại Hồ Xuân Hương gọi chúng “dê cỏn” dê con, dê dê nhỏ, ngây thơ, “dê cỏn” hạng dê lớn, ngang ngược, tự đắc Cách gọi “ong non”, “dê cỏn”, “ngứa nọc”, “buồn sừng” thể thành công chất ti toe anh nửa trẻ nửa người lớn Bọn chúng kẻ “ngựa non háu đá”, hợm hĩnh thực chất chút học thức thật Có thể nói, thú vị, hóm hỉnh Xuân Hương khiến bật cười, cười thích thú xen lẫn nể phục nữ nhi, tài nghệ văn chương bà hẳn thứ mang danh “thầy” nửa mùa Hay “Sư hổ mang”, vị sư thầy đáng kính, đạo mạo hay nghĩ tới nhắc đến chùa chiền, Phật giáo không thấy thơ bà nữa “ Chẳng phải Ngô, ta, Đầu trọc lốc, áo không tà Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm, Vải núp sau lưng sáu bảy bà Khi cảnh, tiu, chũm choẹ, Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi Tu lâu có lẽ lên Sư cụ, Ngất nghểu sen mà.” Sư hổ mang Đầu trọc đỗi bình thường, sư mà đầu chẳng trọc? Thế kèm với từ “lóc” thành “trọc lóc”, “áo không tà”, chân dung nhà sư lên đầy vẻ thấy mỉa mai, đùa cợt Ban ngày bao nhà sư khác, cúng dường,“oản dâng” Phật bình thường, mà ẩn sau đó, “sắc dục” quẩn quanh , vây hãm lấy nhà sư Không thế, chùa chiền vốn chốn tôn nghiêm, thiêng liêng, mà sư với vãi chơi trò chơi đám nít?! Ở chùa có chuông, mõ mà lại có đủ thứ nhạc khí phường bát âm "Khi cảnh, tiu, chũm chọe" Và tụng kinh niệm Phật mà muốn đổi giọng đổi "Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha" chẳng khác diễn tuồng! Chỉ vài hình ảnh cử chỉ, giọng điệu toát hình tượng nhà sư mà người đời kính trọng trở nên biến chất mặt đạo đức đến mức xã hội lúc Cách khắc họa nhân vật Hồ Xuân Hương vô đơn giản lại toát lên hương vị, đặc trưng, điển hình cho phong cách thơ bà Chỉ vài nét chấm phá, hình tượng người lên với đầy đủ đặc điểm, tính chất mà Xuân Hương muốn đề cập đến Đó điều mà nhà thơ thực được, ta thấy rõ nét nhiều thơ “bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương Cách sử dụng từ ngữ Nếu so sánh kiểu lựa chọn từ ngữ Bà Huyện Thanh Quan với cách sử dụng từ ngữ Hồ Xuân Hương, ta thấy có đối nghịch rõ nét hai người Cùng miêu tả đèo câu chữ Bà Huyện Thanh Quan sang trọng, mực thước mang phóng cách thơ văn “quý tộc” “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ chen lá, đá chen hoa Lom khom núi, tiều vài Lác đác bên sông, chợ nhà” Qua Đèo Ngang Trong đó, Đèo Ba Dội Hồ Xuân Hương vô gần gũi, thân thuộc nhiều Nếu đứng phương diện ý nghĩa nhã mà so sánh thơ Bà Huyện Thanh Quan hình đen trắng phẳng Đèo Ba Dội tranh ba chiều sống động đầy màu sắc âm Xuân Hương không chiêm nghiệm sống từ khoảng cách xa mà trái lại bà tận hưởng tất âm thanh, màu sắc, hình khối… vạn vật trạng thái sung mãn Nữ thi sĩ tài hoa khai thác triệt để khả tu từ phong phú ngôn ngữ dân tộc hết, nghệ thuật trào phúng bà mài giũa bén nhọn Tài mặt ngôn ngữ không biểu lộ thông qua cách thức miêu tả cảnh vật thiên nhiên, mà muốn trào lộng đó, bà khiến chúng, có bậc “anh hùng”, “quân tử”, “văn nhân” hay chí bậc “vua”, “chúa” phải vẻ thiêng liêng, đạo mạo, bà bóc trần kẻ giả dối mà khoác lên thân áo đạo đức cao sang Cả tiếng xưng hô với thần thánh “đây”, “đấy” bà đứng trước Đền Sầm Nghi Đống nghe đầy vẻ kể cả, xách mé “Ví đổi phận làm trai được, Thì anh hùng há nhiêu!” Đền Sầm Nghi Đống Không thế, việc sáng tạo nhiều từ ngữ lạ, cách thức dùng “Xuân Hương” Những từ ngữ sắc nhọn đậm chất liên tưởng “cửa son”, “bậc đá”, “lún phún”, “nòng nọc”, “lỗ, hang”, “tùm hum”, “mân mó”,… làm tác động mạnh lên thần kinh cảm giác người đọc, buộc người đọc không muốn hình dung phải hình dung Trong thơ Hồ Xuân Hương tràn ngập động từ mạnh, có từ thân động từ mạnh có lẽ nữ thi sĩ chưa vừa ý, bà gắn thêm vào phó từ bổ nghĩa mà ta thấy Tự tình III “Xiên ngang mặt đất rêu đám Đâm toạc chân mây đá hòn.” Tự tình III Từ “ngang” làm cho động từ xiên trở nên cứng chắc, khỏe động tác trở nên “ngọt” hơn, “toạc” biến động từ trở nên mạnh mẽ hết, đâm vút lên chỉa thẳng vào chân mây, làm rách toạc bầu trời, mà ngăn cản Sự thêm thắt đầy sáng tạo tạo nên chất mạnh mẽ thơ Hồ Xuân Hương Có lẽ đặc biệt thơ Hồ Xuân Hương cách sử dụng từ láy lạ Những từ láy có tác dụng diễn tả độ sâu, độ nhoè, luồn lách, chông chênh, cử động nhanh mạnh “hỏm hòm hom”, “trắng phau phau”, “đỏ lòm lom”, … Chỉ từ mà diễn tả chiều không gian, rộng sâu hun hút “Bày đặt khéo khéo phòm Nứt lỗ hỏm hòm hom” Động Hương Tích Hay “Trời đất sinh đá chòm Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom” Hang Cắc Cớ Để diễn tả độ sâu, Xuân Hương dùng hai lần từ “hỏm hòm hom” hai “Hang Cắc Cớ” “Động Hương Tích” Không phải “hun hút”, “thăm thẳm” mà “hỏm hòm ho,”âm “o” tròn môi kết hợp với vần “om” làm mở rộng thêm độ sâu tận hang, đồng thời cho thấy chiều rộng lẫn chiều cao hang động, kích thích trí tò mò người Một từ mà diễn đạt đa chiều không gian đó, nhìn lại dòng thơ thời đại đổ sau, ta khó mà kiếm câu thơ đặc biệt đến Thơ Huy Cận tài tình không tránh khỏi dùng nhiều từ không gian để dẫn giải chiều không gian “Nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài trời rộng bến cô liêu” Tràng giang Xuân Hương không cần “xuống”, “lên”, “sâu”, chẳng cần “dài”, “rộng” mà từ khiến người đọc hình dung rõ ba chiều không gian vật mà bà muốn nói đến Trong thơ Hồ Xuân Hương sáng tác, từ láy sử dụng với tần suất cao, bao gồm từ láy gợi âm thanh “tỉ tì ti”, “hi ha”, “hu hơ”, “vo ve”, …, từ láy gợi cảm giác, xúc giác “xù xì”, “toen hoẻn”, “lam nham”,…, từ gợi tư vận động “cheo leo”, “vắt vẻo”, “lom khom”, ngất nghểu,… hay từ tượng gây tiếng động khua lắc cắc, vỗ long bong, vỗ phập phòm, rơi thánh thót, rơi lõm bõm… Ngay từ láy tượng hình hóa nội tâm nhân vật trữ tình “Tự tình” có nét nghĩa vận động “nổi nênh”, “lênh đênh”, “lai láng”, …đều gợi trôi nổi, chơi vơi Thơ Xuân Hương thực cá tính mà không nhà thơ bắt chước Bà đưa ngữ vào thơ cách tự nhiên “tí con”, “lại đây”, “muốn sống”… kể tiếng chửi “bá ngọ”, “chém cha”, “cha kiếp”, “lũ ngẩn ngơ”,… mang đậm đặc trưng dân tộc Không trau chuốt, tô vẽ, chất bình dân mộc mạc ngấm sâu Hồ Xuân Hương tạo nên tiếng cười thu hút, gần gũi đại chúng Lê Hoài Nam viết "Hồ Xuân Hương" in Nghĩ thơ Hồ Xuân Hương Nxb GD 1998 nhận xét "Xuân Hương có vốn ngôn ngữ phong phú, xác, đồng thời độc đáo Điều chứng tỏ Hồ Xuân Hương nắm vững ngôn ngữ dân tộc, mà biểu cá tính mạnh mẽ Xuân Hương Có tiếng hỏm hòm hom, trơ toen hoẻn, chín mõm mòm, đỏ lòm lom, sáng banh, trưa trật phải người có lĩnh vững vàng Xuân Hương đưa vào văn học, vào thi ca Nói chung ngôn ngữ Xuân Hương có sức biểu mạnh, xúc tích, hình ảnh sinh động, nói tiếng đắc tiếng" Cách sử dụng từ ngữ đầy tính gợi sinh động cách thức góp phần tạo nên tiếng cười cho thơ văn Hồ Xuân Hương Không bình lặng mà loạn, văn thơ Xuân Hương giống tính cách người bà, có vài trăm, vài nghìn năm sau nữa, làm “điêu đứng” giới thơ văn “Tính dục” thơ Hồ Xuân Hương Không tài tình cách khắc họa, xây dựng nhân vật sử dụng từ ngữ độc đáo, “tính dục” thơ Hồ Xuân Hương thứ góp phần xây dựng thành công nghệ thuật trào phúng Đã có nhiều ý kiến bàn cãi thơ Hồ Xuân Hương nhiều lời nhận định đưa Liệu thơ bà có hay không tồn yếu tố “dâm” “tục”? Tuy thế, có điều mà không phủ nhận rằng, ẩn sâu câu chữ thơ bà đỗi đặc biệt để nhận nó, tiếng cười bật cách vô tự nhiên Hồ Xuân Hương khéo léo lồng ghép ý tứ “thầm kín” lớp bề “thanh tao” “Một đèo, đèo lại đèo Khen khéo tạc cảnh cheo leo Cửa son đỏ loét tùm hum Hòn đá xanh rì lún phún rêu” Đèo Ba Dội Đọc thơ ta thấy rõ Hồ Xuân Hương miêu tả vẻ đẹp Đèo Ba Dội Một đèo Ba Dội với cỏ mọc bừa bãi, bước chân lên đèo thấy đất đỏ chân, hang động màu đỏ chẳng có khiến ta phải phân vân, lí giải dòng thơ bà góc độ phồn thực, cảm thấy thú vị hình ảnh tưởng chừng chân thực lại mang tầng nghĩa sâu xa, sống động đến kì lạ Nói mà không nói, tả mà không tả mà để người đọc tự khơi dậy trí tưởng tượng Bả không nói toạc điều thầm kín 10 buồng the gác kín mà thông qua biểu tượng mang tính phồn thực, nữ sĩ gửi gắm đa tầng ý nghĩa không đơn thuẩn tả cảnh thiên nhiên Trong thời đại Nho giáo phong kiến khắt khe, cô gái Hồ Xuân Hương không tự sống thật với tình yêu, hôn nhân, mà ngược lại phải chịu cưỡng ép, gò bó theo lề lối Chính thế, thơ mang “tính dục” mà đại diện tiêu biểu Hồ Xuân Hương sáng tác nhằm bày tỏ tiếng lòng, khát vọng giải phóng tình cảm, hưởng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời phương tiện để đả kích tầng lớp thống trị mục nát Hay thơ “Đánh đu”, Hồ Xuân Hương khéo léo đến mức khiến hình dung rõ ràng từ việc dựng đu cảnh chơi đu trai, gái thời xưa. “Bốn cột khen khéo khéo trồng Người lên đánh kẻ ngồi trông Trai đu gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng cong ngửa ngửa lòng Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới Hai hàng chân ngọc duỗi song song Chơi xuân có biết xuân tá Cọc nhổ lỗ bỏ không !” Đánh đu Sự khéo léo, nhịp nhàng cặp từ trai – gái, đu - uốn, khom khom cật ngửa ngửa lòng không gợi sức hút mặt thẩm mỹ mà thông qua đó, ta cảm nhận niềm vui đôi trai gái tham gia trò chơi đánh đu lễ hội làng quê Đặc biệt từ “cật” câu luận danh từ phận thể đứng sau từ láy “khom khom” thường hiểu động từ, vần “at” trắc cao âm gật, bật, lật tạo cảm giác hành động, nhịp nhanh, liên tục cho thấy hào hứng chơi đu Kông thế, hình ảnh “hai hàng chân ngọc” thi 11 sĩ phác họa sống động mà không bút vẽ họa sĩ làm Làm có vẽ nên tranh đôi hàng chân co duỗi nhịp nhàng đến thế? Cái chỗ “đánh đu” mà lại đánh đu Một thơ với nhiều lớp nghĩa kích thích, thu hút người đọc, đồng thời, với đa tầng nhiều lớp nghĩa, thấy rõ tài người phụ nữ tài sắc vẹn toàn Tính “dục” thơ Hồ Xuân Hương dùng để đả kích tên hiền nhân quân tử đạo mạo, đàng hoàng Mang danh thế, thực chất, nhìn thấy vẻ đẹp, thân thể “thiếu nữ ngủ ngày” “Đôi gò Bồng Đảo hương ngậm Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông” thì “Quân tử dùng dằng chẳng dứt Đi dở không xong” Thiếu nữ ngủ ngày Chỉ từ láy “dùng dằng” đủ để lột tả phân vân, tranh đầu nội tâm dội nên hay nên ở? Đi tiếc lỡ dịp may lạ lùng, chiêm ngưỡng thân ngọc ngà nằm chõng ngàn năm có Ở không xong lỡ có người trông thấy, cô gái tỉnh lại, tiếng lành đồn xa chịu chê cười Và cuối thơ, người ta chàng quân tử định “đi” hay “ở” đời thường đàn ông ngồn ngộn kìm chế Ta bật cười trước băn khoăn anh ta, nhìn muốn lại, mà lại không thể, muốn mà lại chẳng Ôi oăm thay! Biện pháp tu từ Một biện pháp tu từ sử dụng phổ biến thơ Hồ Xuân Hương biện pháp nói lái Nói lái biện pháp tu từ dùng cách đánh tráo phụ âm đầu, vần điệu hai hay nhiều âm tiết để tạo nên lượng ngữ nghĩa bất ngờ, nhằm mục đích châm biếm, đùa vui ây hình thức chơi chữ đặc biệt 12 ngôn ngữ phân tiết tiếng Việt có từ lâu đời thường thấy văn học dân gian Nó tồn câu ca dao, tục ngữ câu hát người xưa “Con cá đối nằm cối đá Con mèo đuôi cụt năm mục đuôi kèo” Hay Cam sành nhỏ ương Ngọt mật đường nhắm lớ anh Thanh ương tuổi mong chờ Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà Ca dao Qua bàn tay nhào nặn Hồ Xuân Hương, nói lái trở thành biện pháp nghệ thuật đặc trưng thơ bà Ngoài bề mặt nghĩa nổi, nghĩa chìm từ ngữ bà mang nhiều tầng nghĩa phong phú, người ta chiêm nghiệm ra, tiếng cười phá lên đầy thú vị sảng khoái, người ta cảm thấy tâm đắc khâm phục tài nghệ vận dụng lối chơi chữ dân gian đậm đà chất nghệ thuật tác phẩm bà “Cái kiếp tu hành nặng đá đeo Làm chi chút tẻo tèo teo Thuyền từ muốn Tây Trúc Trái gió phải lộn lèo” Sư hoạnh dâm Xét bề mặt ngữ nghĩa từ có ý nghĩa, tạo nên nội dung thống nhất, hoàn chỉnh “Lộn lèo” dây lèo thuyền buồm bị ngược gió phải lộn ngược trở lại, “trái gió” ngược gió Tuy nhiên lái lại, thơ lại tạo nên lớp nghĩa khác, hoàn toàn không liên quan đến nghĩa gốc tự thân mục đích xoáy sâu vào nhân vật nhắc đến Luận nghĩa thứ hai, hoạt động thuộc 13 ông sư, bà vãi, tiểu… vào đây? Tài tình chỗ từ ngữ mang nghĩa không sống sượng, chớt nhã, khiêu dục… Ở góc độ khác, tài tình Hồ Xuân Hương thể việc dùng từ thuộc trường từ vựng thơ Bài thơ Khóc Tổng Cóc, 28 chữ có từ vật thuộc loài cóc “Chẫu chàng”, “nhái bén”, “nòng nọc”, “chẫu chuộc”, “cóc” Bài “Bỡn bà lang khóc chồng” có nhiều từ vị thuốc “cam thảo”, “quế chi”, “trần bì”, “thạch nhũ”, “quy thân”, “liên nhục”…cả từ hành động bào chế thuốc, dụng cụ làm thuốc “sao”, “tẩm”, “dao cầu”… Bên cạnh đó, việc vận dụng thủ pháp ẩn dụ làm tăng thêm tính biểu tượng, gợi hình cho tranh với đường nét mà Xuân Hương phác thảo nên Mượn hình ảnh ốc nhồi hay mít để đả phá đám quân tử đạo mạo, cao thực chất chuyên đùa bỡn tình cảm cô gái nhà lành thông qua đó, nữ thi sĩ thể ước mơ hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn “Bánh trôi nước” mà nữ sĩ nhắc đến vẻ đẹp hình thể, tâm hồn người gái thân phận bé nhỏ, đời có phũ phàng, xã hội có vùi giập “em giữ lòng son “Tấm lòng son " biểu phẩm chất cao đẹp người phụ nữ xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ" lúc mà không đủ sức làm lay chuyển KẾT LUẬN Hồ Xuân Hương thổi luồng gió vào văn học viết Việt Nam Có thể nói, bà người phụ nữ không tài hoa mà gan dạ, dám nói cần nói nói thẳng, nói thật không vòng vo, né tránh Ngôn ngữ Xuân Hương sử dụng giản dị, dễ nhớ, dễ đọc, phù hợp với tầng lớp bình dân Không thế, ngòi bút xuất sắc mình, nữ sĩ khéo léo đưa nghệ thuật trào phúng vào thơ văn, nhằm đem lại niềm vui, tiếng cười cho người đọc thông qua đó, xã hội với đầy rẫy bất công mà nạn nhân người 14 phụ nữ tái lên Bản thân Hồ Xuân Hương người phụ nữ, chịu kiếp làm lẽ nên thấm thía nỗi đau Chính thế, thơ văn Hồ Xuân Hương mang nội dung chân thực không thế, tính nghệ thuật đậm đà Và nghệ thuật trào phúng bà vô độc đáo khác biệt 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO Bắc Giang, Phiếm Luận thơ Hồ Xuân Hương Bùi Ngọc Minh, Đặc điểm tiếng cười thơ Nôm truyền tụng thuộc tượng Hồ Xuân Hương Đỗ Lai Thúy, Vấn đề dâm tục thơ Hồ Xuân Hương Đỗ Lai Thúy, Lý giải dâm tục thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tín ngưỡng phồn thực Kiều Văn, Bản chất thơ Hồ Xuân Hương Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với nhìn nữ quyền luận Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận “Hồ Xuân Hương – Ghẹo cười xuyên kỷ” Nguyễn Thị Ngọc Châu, Luận văn “Vấn đề tính dục thơ Nôm Hồ Xuân Hương góc độ so sánh.” 10 Nguyễn Vinh Phúc, Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nôm 11 Nhiều tác giả, Hồ Xuân Hươmg – Thơ đời, 2010 [...]... Bản chất thơ Hồ Xuân Hương Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với cái nhìn nữ quyền luận Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận Hồ Xuân Hương – Ghẹo cười xuyên thế kỷ” Nguyễn Thị Ngọc Châu, Luận văn “Vấn đề tính dục trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc độ so sánh.” 10 Nguyễn Vinh Phúc, Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nôm 11 Nhiều tác giả, Hồ Xuân Hươmg... cũng rất đậm đà Và nghệ thuật trào phúng của bà cũng vô cùng độc đáo và khác biệt 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 2 Bắc Giang, Phiếm Luận về thơ Hồ Xuân Hương Bùi Ngọc Minh, Đặc điểm tiếng cười trong thơ Nôm truyền tụng thuộc hiện tượng Hồ Xuân Hương 3 Đỗ Lai Thúy, Vấn đề dâm tục trong thơ Hồ Xuân Hương 4 Đỗ Lai Thúy, Lý giải cái dâm cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tín ngưỡng phồn thực 5 6 7 8 9... léo đưa nghệ thuật trào phúng vào thơ văn, nhằm đem lại niềm vui, tiếng cười cho người đọc và cũng thông qua đó, xã hội với đầy rẫy những bất công mà nạn nhân chính là những người 14 phụ nữ cũng được tái hiện lên Bản thân Hồ Xuân Hương cũng là người phụ nữ, cũng chịu kiếp làm lẽ nên càng thấm thía nỗi đau Chính vì thế, thơ văn Hồ Xuân Hương mang nội dung chân thực và không chỉ thế, tính nghệ thuật cũng... thấy trong văn học dân gian Nó tồn tại trong những câu ca dao, tục ngữ câu hát của người xưa “Con cá đối nằm trong cối đá Con mèo đuôi cụt nó năm mục đuôi kèo” Hay Cam sành nhỏ lá thanh ương Ngọt mật thanh đường nhắm lớ bớ anh Thanh ương là tuổi mong chờ Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà Ca dao Qua bàn tay nhào nặn Hồ Xuân Hương, nói lái trở thành một biện pháp nghệ thuật rất đặc trưng trong thơ. .. cưỡng ép, gò bó theo lề lối Chính vì thế, các bài thơ mang “tính dục” mà đại diện tiêu biểu là Hồ Xuân Hương được sáng tác ra nhằm bày tỏ tiếng lòng, khát vọng giải phóng tình cảm, được hưởng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời còn là phương tiện để đả kích tầng lớp thống trị mục nát Hay trong bài thơ “Đánh đu”, Hồ Xuân Hương đã khéo léo đến mức khiến chúng ta có thể hình dung rõ ràng từ việc dựng cây đu cho đến... Một bài thơ với nhiều lớp nghĩa sẽ kích thích, thu hút người đọc, đồng thời, với sự đa tầng nhiều lớp nghĩa, chúng ta sẽ càng thấy rõ tài năng của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn này Tính “dục” trong thơ Hồ Xuân Hương còn được dùng để đả kích những tên hiền nhân quân tử đạo mạo, đàng hoàng Mang danh là thế, nhưng thực chất, khi nhìn thấy vẻ đẹp, thân thể của “thiếu nữ ngủ ngày” “Đôi gò Bồng Đảo hương. .. cuối bài thơ, người ta vẫn không biết chàng quân tử ấy quyết định “đi” hay “ở” dù cho cái bản năng rất đời thường của đàn ông ấy nó cứ ngồn ngộn không thể kìm chế được Ta bật cười trước cái sự băn khoăn của anh ta, càng nhìn càng muốn ở lại, mà lại không thể, muốn đi mà lại chẳng đi được Ôi oái oăm thay! 4 Biện pháp tu từ Một trong những biện pháp tu từ được sử dụng rất phổ biến trong thơ Hồ Xuân Hương. . .trong buồng the gác kín mà thông qua các biểu tượng mang tính phồn thực, nữ sĩ gửi gắm đa tầng ý nghĩa không đơn thuẩn tả cảnh thiên nhiên Trong thời đại Nho giáo phong kiến khắt khe, những cô gái như Hồ Xuân Hương không được tự do sống thật với tình yêu, hôn nhân, của chính mình mà ngược lại còn phải chịu sự cưỡng ép, gò bó theo lề lối Chính vì thế, các bài thơ mang “tính dục”... chất cao đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ" lúc bấy giờ mà không ai có thể đủ sức làm lay chuyển nó KẾT LUẬN Hồ Xuân Hương đã thổi một luồng gió mới vào nền văn học viết Việt Nam Có thể nói, bà là một người phụ nữ không chỉ tài hoa mà còn rất gan dạ, dám nói những gì cần nói và nói thẳng, nói thật chứ không vòng vo, né tránh Ngôn ngữ Xuân Hương sử dụng rất giản dị, dễ... thuật rất đặc trưng trong thơ bà Ngoài bề mặt nghĩa nổi, nghĩa chìm trong từng từ từng ngữ của bà đều mang nhiều tầng nghĩa hết sức phong phú, để mà khi người ta chiêm nghiệm ra, ngoài tiếng cười phá lên đầy thú vị và sảng khoái, người ta còn cảm thấy tâm đắc và khâm phục tài nghệ vận dụng lối chơi chữ dân gian đậm đà chất nghệ thuật trong tác phẩm của bà “Cái kiếp tu hành nặng đá đeo Làm chi một chút ... phẩm thơ Hồ Xuân Hương Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích – tổng hợp Phương pháp liệt kê Phương pháp so sánh… NỘI DUNG CHƯƠNG I KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG VÀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ... chứa phản kháng mạnh mẽ, liệt không trào phúng, thơ Hồ Xuân Hương đậm đà chất trữ tình đặc sắc CHƯƠNG II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Khắc họa hình tượng nhân vật,... Bản chất thơ Hồ Xuân Hương Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với nhìn nữ quyền luận Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận Hồ Xuân Hương – Ghẹo - Xem thêm -Xem thêm NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG, NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG, , CHƯƠNG II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG, Cách sử dụng từ ngữ, Biện pháp tu từ
MỤC LỤCMỞ ĐẦU1. Lí do chọn đề tàiHồ Xuân Hương là một hiện tượng văn học hiếm thấy của nền văn học ViệtNam. Không chỉ tài hoa xuất chúng mà cả thơ văn lẫn cuộc đời của bà cũng đãlàm tốn không biết bao nhiều là giấy mực của giới nghiên cứu. Giáo sư Lê ĐìnhKỵ khi bàn về Hồ Xuân Hương đã từng có câu nhận xét như sau “Thơ XuânHương vốn xa lạ với lối đại ngôn kiểu đó, mà bình dị, tự nhiên - không phải khẩukhí mà là huyết khí, với khí chất riêng của mình”. Chính vì mang một cốt cáchriêng, khí khái riêng mà ẩn chứa trong thơ Xuân Hương là sức sống tiềm tàngmãnh liệt, luôn chực chờ tuôn trào trong từng câu chữ và một trong những thứtạo nên cốt cách riêng ấy, chính là nghệ thuật trào phúng trong thơ của Hồ Mục đích nghiên cứuViệc tìm hiểu kỹ hơn về nghệ thuật trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hương sẽgiúp chúng ta hình dung rõ nét hơn về con người và cá tính trong thơ của bà,đồng thời hiểu được lý do vì sao thơ văn của Hồ Xuân Hương lại có giá trị to lớnđến thế đối với nền văn học nước Đối tượng nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu của đề tài này là nghệ thuật trào phúng trong thơ HồXuân Phạm vi nghiên cứuPhạm vi nghiên cứu đề tài này xoay quanh các tác phẩm thơ của Hồ Phương pháp nghiên cứu-Phương pháp phân tích – tổng pháp liệt pháp so sánh….NỘI DUNGCHƯƠNG I KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG VÀ NGHỆ THUẬT TRÀOPHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG1. Khái niệm “Trào phúng”“Trào phúng” bản thân nó là từ Hán - Việt. Nếu tách riêng từng chữ thì “trào” làcười cợt, chế giễu; “phúng” là lời bóng gió để châm biếm, đả kích. Nghệ thuật tràophúng là cách thức dùng ngôn từ ví von, bóng gió để châm biếm, đả kích những thóihư tật xấu trái với lương tri, đạo đức xã ta thường chia trào phúng thành ba loại chính loại khôi hài, cười cợt; loạtphê phán, đả kích và loại châm biếm chế giễu. Đặc trưng cơ bản của thơ trào phúnglà yếu tố gây cười, yếu tố hài hước trong văn bản được thể hiện về mặt nội dung lẫnhình thức và ta có thể cảm nhận rõ điều này trong thơ của Hồ Xuân Đối tượng trào phúng trong thơ Hồ Xuân HươngHồ Xuân Hương nhìn ra những ung nhọt của xã hội và đưa vào thơ mình, tiếngchửi của bà cất lên đầy hả hê khiến người nghe cũng phải cười thích thú. Đối tượnglên án của bà rất đa dạng nhưng đều có đặc điểm chung là những tên “bụng đầy kinhsách” hay những hạng “quyền cao chức trọng” nhưng lúc nào cũng tỏ vẻ thanh là những tên công tử nhà giàu hợm hĩnh, đã ham ghẹo gái lại còn võ vẽ làm thơ,lại còn thích đề thơ trước cửa đền, chùa khoe mẽ2“Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,Cũng đòi học nói, nói không về nhắn bảo phường lòi tói,Muốn sống, đem vôi quét trả đền”Bọn Đồ DốtBà truy ra tận gốc lũ hại dân, hại nước không chừa bất cứ ai, kể cả lũ vua chúa ,quan lại, hiền nhân quân tử... luôn cho mình có sứ mạng truyền bá, hành xử đạo líthánh hiền, giữ gìn kỉ cương xã hội nhưng con người thật của chúng không chỉ hámdanh, hám lợi mà còn đam mê tửu sắc“Hồng hồng má phấn duyên vì cậyChúa dấu vua yêu một cái này”Vịnh quạtNếu với tầng lớp vua chúa, quan lại bà chửi thẳng vào cái thói háo sắc nhưngthích “giả vờ” thì với đám quan thị, bà đánh vào cái cuộc sống trái lẽ tự nhiên củabọn chúng “Quan thị”. Ngoài ra, sư sãi cũng là một trong những đối tượng đượcnhắc đến không ít lần trong thơ Xuân Hương. Trong cái xã hội rối ren, nhà chùa đãkhông còn giữ được vẻ trang nghiêm, thành kính vốn có mà thay vào đó là nhữngtên sư vô lại, lợi dụng nơi tu hành để thực hiện những hành vi giả dối đồi bại “Sưhổ mang”, “Chùa Quán Sứ”, “Cái kiếp tu hành”….Tuy được nhắc đến nhiều nhất và trọng tâm nhất vẫn là những “anh hùng quântử”, nhưng Xuân Hương cũng không bỏ qua những tên đàn ông bạc tình bạc nghĩa,xem tình cảm của những cô gái ngây thơ là trò chơi để rồi khi “no xôi chán chè”,chúng thẳng tay rũ bỏ“Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,Phận liễu sao đà nảy nét nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?Mảnh tình một khối thiếp xin mang”3Không chồng mà chửaTrào phúng trong thơ Xuân Hương được thể hiện bằng nhiều cung bậc cảm xúckhác nhau. Hả hê có, thích thú có nhưng đắng cay có, chua xót cũng nhiều. Tiếngcười mang ý nghĩa sâu sắc và ẩn chứa trong đó là sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệtvà không chỉ trào phúng, thơ Hồ Xuân Hương còn rất đậm đà chất trữ tình đặc II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONGTHƠ HỒ XUÂN HƯƠNG1. Khắc họa hình tượng nhân vật, chủ thể điệu bộ, cử chỉ, tính cáchĐể góp phần tạo nên thành công trong việc xây dựng nghệ thuật trào phúng,chúng ta không thể không nhắc đến tài năng khắc họa hình tượng nhân vật của HồXuân Hương. Bà đã phác nên những nét rất riêng cho các nhân vật của mình mộtcách giản đơn, dung dị mà chẳng cần miêu tả ngoại hình bằng những từ ngữ, câu thơdài dòng. Bà khéo léo thổi hồn vào nhân vật và thông qua đó biểu lộ thái độ của bảnthân“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơLại đây cho chị dạy làm thơ”Ong non ngứa nọc châm hoa rữaDê cỏn buồn sừng húc dậu thưa!”Lũ ngẩn ngơTrong “Giai thoại văn học Việt Nam” có ghi chép, một ngày kia, Hồ XuânHương đi thăm chùa Trấn Quốc về, bà đang lững thững đi bên bờ hồ Tây thì có vàitên thầy khóa rảo theo sau, giở giọng chữ nghĩa ra hòng trên ghẹo. Xuân Hương vẫnlặng thinh không nói, nhưng đến khi nghe cái thứ “thơ thẩn” nửa mùa ấy, không chịuđược, bà quay lại đọc dồn cho chúng cho bài thơ. Chỉ với một từ “ngẩn ngơ” ngaycâu đầu tiên đã phác họa toàn bộ dáng vẻ của những tên văn sĩ nửa mùa nhưng haytỏ vẻ. Chúng tuy mang tiếng chữ nghĩa đầy mình nhưng khi thốt ra cũng chẳng khác4gì “lũ ngẩn ngơ”, không biết gì, để đến nỗi một cô gái trẻ phải “dạy” lại. Hồ XuânHương gọi chúng là “dê cỏn” chứ không phải dê con, vì dê con là dê còn nhỏ, cònngây thơ, “dê cỏn” là hạng dê mới lớn, có cái vẻ ngang ngược, tự đắc. Cách gọi“ong non”, “dê cỏn”, “ngứa nọc”, “buồn sừng” thể hiện rất thành công bản chất titoe của những anh nửa trẻ con nửa người lớn. Bọn chúng chỉ là những kẻ “ngựa nonháu đá”, hợm hĩnh chứ thực chất không có một chút học thức thật sự nào. Có thểnói, cái thú vị, hóm hỉnh của Xuân Hương khiến chúng ta bật cười, cười vì thích thúxen lẫn nể phục vì tuy là nữ nhi, nhưng tài nghệ văn chương của bà còn hơn hẳn cáithứ mang danh “thầy” nửa mùa trong bài “Sư hổ mang”, vị sư thầy đáng kính, đạo mạo chúng ta hay nghĩtới mỗi khi nhắc đến chùa chiền, Phật giáo đã không còn thấy trong thơ bà nữa“ Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta,Đầu thì trọc lốc, áo không dâng trước mặt dăm ba phẩm,Vải núp sau lưng sáu bảy cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ,Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi lâu có lẽ lên Sư cụ,Ngất nghểu toà sen nọ đó mà.”Sư hổ mangĐầu trọc thì rất đỗi bình thường, sư nào mà đầu chẳng trọc? Thế nhưng khi đikèm với từ “lóc” thành “trọc lóc”, “áo không tà”, chân dung nhà sư hiện lên đầy vẻthấy mỉa mai, đùa cợt. Ban ngày cũng như bao nhà sư khác, cũng cúng dường,“oảndâng” Phật rất bình thường, ấy thế mà ẩn sau đó, cái “sắc dục” vẫn quẩn quanh , vâyhãm lấy nhà sư. Không chỉ thế, chùa chiền vốn là chốn tôn nghiêm, thiêng liêng, ấyvậy mà sao sư với vãi cứ như đang chơi trò chơi của đám con nít?! Ở chùa chỉ cóchuông, mõ mà đây lại có đủ thứ nhạc khí như một phường bát âm "Khi cảnh, khi5tiu, khi chũm chọe". Và tụng kinh niệm Phật mà muốn đổi giọng nào thì đổi "Giọnghì, giọng hỉ, giọng hi ha" chẳng khác diễn tuồng! Chỉ bằng một vài hình ảnh cùng cửchỉ, giọng điệu thôi nhưng đã toát hình tượng một nhà sư mà người đời kính trọngtrở nên biến chất về mặt đạo đức đến mức nào trong cái xã hội lúc bấy khắc họa nhân vật của Hồ Xuân Hương vô cùng đơn giản nhưng lại toát lênhương vị, đặc trưng, điển hình cho phong cách thơ của bà. Chỉ bằng một vài nétchấm phá, hình tượng con người hiện lên với đầy đủ những đặc điểm, tính chấtmà Xuân Hương muốn đề cập đến. Đó không phải là điều mà bất cứ nhà thơ nàocũng có thể thực hiện được, nhưng ta thấy rất rõ nét trong nhiều bài thơ của “bà chúathơ Nôm” Hồ Xuân Cách sử dụng từ ngữNếu như so sánh các kiểu lựa chọn từ ngữ của Bà Huyện Thanh Quan với cáchsử dụng từ ngữ của Hồ Xuân Hương, ta sẽ thấy có sự đối nghịch rõ nét giữa haingười. Cùng là miêu tả về đèo nhưng câu chữ của Bà Huyện Thanh Quan sangtrọng, mực thước và mang phóng cách thơ văn “quý tộc”“Bước tới đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá, đá chen hoaLom khom dưới núi, tiều vài chúLác đác bên sông, chợ mấy nhà”Qua Đèo NgangTrong khi đó, Đèo Ba Dội của Hồ Xuân Hương vô cùng gần gũi, thân thuộc hơnrất nhiều. Nếu đứng về phương diện ý nghĩa thanh nhã mà so sánh thì bài thơ của BàHuyện Thanh Quan như là một bức hình đen trắng bằng phẳng còn bài Đèo Ba Dộinhư là một bức tranh nổi ba chiều sống động đầy màu sắc và âm XuânHương không chiêm nghiệm cuộc sống từ khoảng cách xa mà trái lại bà tận hưởngtất cả âm thanh, màu sắc, hình khối… của vạn vật trong trạng thái sung mãn nhất6của nó. Nữ thi sĩ tài hoa đã khai thác triệt để khả năng tu từ phong phú của ngôn ngữdân tộc và hơn bao giờ hết, nghệ thuật trào phúng cũng được bà mài giũa bén nhọnhơn. Tài năng về mặt ngôn ngữ không chỉ biểu lộ thông qua cách thức miêu tả cảnhvật thiên nhiên, mà khi muốn trào lộng một ai đó, bà còn có thể khiến chúng, dù chocó là bậc “anh hùng”, “quân tử”, “văn nhân” hay thậm chí là bậc “vua”, “chúa” đinữa cũng phải mất đi cái vẻ thiêng liêng, đạo mạo, bà bóc trần những kẻ giả dối màluôn khoác lên thân chiếc áo đạo đức cao sang . Cả cái tiếng xưng hô với thần thánh“đây”, “đấy” của bà khi đứng trước Đền Sầm Nghi Đống cũng nghe đầy vẻ kể cả,xách mé“Ví đây đổi phận làm trai được,Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!”Đền Sầm Nghi ĐốngKhông chỉ thế, việc sáng tạo ra nhiều từ ngữ mới lạ, cách thức dùng cũng rất“Xuân Hương”. Những từ ngữ sắc nhọn đậm chất liên tưởng “cửa son”, “bậc đá”,“lún phún”, “nòng nọc”, “lỗ, hang”, “tùm hum”, “mân mó”,… càng làm tác độngmạnh lên thần kinh cảm giác của người đọc, buộc người đọc không muốn hình dungcũng phải hình dung. Trong thơ của Hồ Xuân Hương luôn tràn ngập những động từmạnh, có những từ bản thân nó đã là động từ mạnh nhưng có lẽ nữ thi sĩ cũng chưavừa ý, bà còn gắn thêm vào nó những phó từ bổ nghĩa mà ta có thể thấy trong bài Tựtình III“Xiên ngang mặt đất rêu từng toạc chân mây đá mấy hòn.”Tự tình IIITừ “ngang” làm cho động từ xiên trở nên cứng chắc, khỏe và động tác trở nên“ngọt” hơn, cũng như “toạc” biến động từ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, nó đâmvút lên chỉa thẳng vào chân mây, làm rách toạc cả bầu trời, mà như không có gì có7thể ngăn cản nổi. Sự thêm thắt đầy sáng tạo này tạo nên chất mạnh mẽ trong thơ HồXuân lẽ đặc biệt nhất trong thơ Hồ Xuân Hương là cách sử dụng từ láy rất mới từ láy có tác dụng diễn tả độ sâu, độ nhoè, thế luồn lách, chông chênh, nhữngcử động nhanh mạnh như “hỏm hòm hom”, “trắng phau phau”, “đỏ lòm lom”, …Chỉ một từ thôi mà có thể diễn tả các chiều của không gian, rộng và sâu hun hút“Bày đặt kìa ai khéo khéo phòmNứt ra một lỗ hỏm hòm hom”Động Hương TíchHay“Trời đất sinh ra đá một chòmNứt làm hai mảnh hỏm hòm hom”Hang Cắc CớĐể diễn tả độ sâu, Xuân Hương dùng hai lần từ “hỏm hòm hom” trong hai bài“Hang Cắc Cớ” và “Động Hương Tích”. Không phải là “hun hút”, “thăm thẳm” màlà “hỏm hòm ho,”âm “o” tròn môi kết hợp với vần “om” càng làm mở rộng thêm độsâu tận cùng của hang, đồng thời cho thấy cả chiều rộng lẫn chiều cao của hangđộng, càng kích thích trí tò mò của con người. Một từ thôi mà đã có thể diễn đạtđược đa chiều của không gian trong khi đó, khi nhìn lại các dòng thơ thời đại đổ vềsau, ta khó mà kiếm ra được những câu thơ đặc biệt đến vậy. Thơ của Huy Cận đãtài tình rồi nhưng vẫn không tránh khỏi dùng nhiều từ chỉ không gian để dẫn giải vềcác chiều không gian“Nắng xuống trời lên sâu chót dài trời rộng bến cô liêu”Tràng giangKhông chỉ tài tình trong cách khắc họa, xây dựng nhân vật và sử dụng từ ngữ độcđáo, “tính dục” trong thơ Hồ Xuân Hương cũng là một trong những thứ góp phầnxây dựng thành công nghệ thuật trào phúng. Đã có rất nhiều ý kiến bàn cãi về thơHồ Xuân Hương và cũng rất nhiều lời nhận định được đưa ra. Liệu thơ của bà cóhay không tồn tại yếu tố “dâm” và “tục”? Tuy thế, có một điều mà không ai có thểphủ nhận được rằng, ẩn sâu dưới từng câu từng chữ trong thơ của bà là một cái gì đórất đỗi đặc biệt để rồi nhận ra nó, tiếng cười sẽ bật ra một cách vô cùng tự Xuân Hương đã rất khéo léo khi lồng ghép những ý tứ “thầm kín” dưới lớpbề nổi của cái “thanh tao”“Một đèo, một đèo lại một đèoKhen ai khéo tạc cảnh cheo leoCửa son đỏ loét tùm hum nócHòn đá xanh rì lún phún rêu” Đèo Ba DộiĐọc bài thơ ta có thể thấy rõ Hồ Xuân Hương đang miêu tả về vẻ đẹp của ĐèoBa Dội. Một đèo Ba Dội với cỏ cây mọc bừa bãi, bước chân lên đèo thì thấy đất đỏdưới chân, hang động cũng màu đỏ thì chẳng có gì khiến ta phải phân vân, nhưngkhi lí giải những dòng thơ của bà dưới góc độ phồn thực, chúng ta sẽ cảm thấy thúvị bởi những hình ảnh tưởng chừng như chân thực ấy lại mang một tầng nghĩa sâuxa, sống động đến kì lạ. Nói mà như không nói, tả mà như không tả mà để người đọctự khơi dậy trí tưởng tượng của mình. Bả không nói toạc ra những điều thầm kín10trong buồng the gác kín mà thông qua các biểu tượng mang tính phồn thực, nữ sĩ gửigắm đa tầng ý nghĩa không đơn thuẩn tả cảnh thiên nhiên. Trong thời đại Nho giáophong kiến khắt khe, những cô gái như Hồ Xuân Hương không được tự do sống thậtvới tình yêu, hôn nhân,.. của chính mình mà ngược lại còn phải chịu sự cưỡng ép, gòbó theo lề lối. Chính vì thế, các bài thơ mang “tính dục” mà đại diện tiêu biểu là HồXuân Hương được sáng tác ra nhằm bày tỏ tiếng lòng, khát vọng giải phóng tìnhcảm, được hưởng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời còn là phương tiện để đả kích tầnglớp thống trị mục trong bài thơ “Đánh đu”, Hồ Xuân Hương đã khéo léo đến mức khiến chúngta có thể hình dung rõ ràng từ việc dựng cây đu cho đến cảnh chơi đu của trai, gáithời xưa.“Bốn cột khen ai khéo khéo trồngNgười thì lên đánh kẻ ngồi trôngTrai đu gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng cong ngửa ngửa lòngBốn mảnh quần hồng bay phấp phớiHai hàng chân ngọc duỗi song songChơi xuân có biết xuân chăng táCọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không !”Đánh đuSự khéo léo, nhịp nhàng của các cặp từ trai – gái, đu - uốn, khom khom cật ngửa ngửa lòng không chỉ gợi sức hút về mặt thẩm mỹ mà còn thông qua đó, ta cóthể cảm nhận được niềm vui của đôi trai gái khi tham gia trò chơi đánh đu trong lễhội làng quê. Đặc biệt từ “cật” ở câu luận là một danh từ chỉ bộ phận cơ thể nhưngđứng sau từ láy “khom khom” nó thường được hiểu là một động từ, vần “at” trắc caonhư các âm gật, bật, lật tạo cảm giác hành động, nhịp nhanh, liên tục... càng chothấy sự hào hứng khi chơi đu. Kông chỉ thế, hình ảnh “hai hàng chân ngọc” được thi11sĩ phác họa hết sức sống động mà không bút vẽ của một họa sĩ nào có thể làm gì có ai vẽ được nên bức tranh đôi hàng chân co duỗi nhịp nhàng đến thế? Cáihay là ở chỗ “đánh đu” mà lại không phải là đánh đu. Một bài thơ với nhiều lớpnghĩa sẽ kích thích, thu hút người đọc, đồng thời, với sự đa tầng nhiều lớp nghĩa,chúng ta sẽ càng thấy rõ tài năng của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn “dục” trong thơ Hồ Xuân Hương còn được dùng để đả kích những tên hiềnnhân quân tử đạo mạo, đàng hoàng. Mang danh là thế, nhưng thực chất, khi nhìnthấy vẻ đẹp, thân thể của “thiếu nữ ngủ ngày”“Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậmMột lạch Đào Nguyên suối chửa thông”thì“Quân tử dùng dằng đi chẳng dứtĐi thì cũng dở ở không xong”Thiếu nữ ngủ ngàyChỉ một từ láy “dùng dằng” thôi cũng đủ để lột tả sự phân vân, tranh đầu nội tâmdữ dội nên đi hay nên ở? Đi thì tiếc vì lỡ dịp may lạ lùng, được chiêm ngưỡng tấmthân ngọc ngà nằm trên chõng kia ngàn năm mới có một. Ở thì không xong vì lỡ nhưcó người trông thấy, cũng có thể cô gái kia tỉnh lại, rồi tiếng lành đồn xa chịu sự chêcười. Và cho đến cuối bài thơ, người ta vẫn không biết chàng quân tử ấy quyết định“đi” hay “ở” dù cho cái bản năng rất đời thường của đàn ông ấy nó cứ ngồn ngộnkhông thể kìm chế được. Ta bật cười trước cái sự băn khoăn của anh ta, càng nhìncàng muốn ở lại, mà lại không thể, muốn đi mà lại chẳng đi được. Ôi oái oăm thay!4. Biện pháp tu từMột trong những biện pháp tu từ được sử dụng rất phổ biến trong thơ Hồ XuânHương là biện pháp nói lái. Nói lái là biện pháp tu từ dùng cách đánh tráo phụ âmđầu, vần và thanh điệu giữa hai hay nhiều âm tiết để tạo nên những lượng ngữ nghĩamới bất ngờ, nhằm mục đích châm biếm, đùa vui. ây là hình thức chơi chữ đặc biệt12của các ngôn ngữ phân tiết như tiếng Việt có từ rất lâu đời và thường thấy trong vănhọc dân gian. Nó tồn tại trong những câu ca dao, tục ngữ câu hát của người xưa“Con cá đối nằm trong cối đáCon mèo đuôi cụt nó năm mục đuôi kèo”HayCam sành nhỏ lá thanh ươngNgọt mật thanh đường nhắm lớ bớ anhThanh ương là tuổi mong chờMột mai nhái lặn chà quơ, quơ chà.Ca daoQua bàn tay nhào nặn Hồ Xuân Hương, nói lái trở thành một biện pháp nghệthuật rất đặc trưng trong thơ bà. Ngoài bề mặt nghĩa nổi, nghĩa chìm trong từng từtừng ngữ của bà đều mang nhiều tầng nghĩa hết sức phong phú, để mà khi người tachiêm nghiệm ra, ngoài tiếng cười phá lên đầy thú vị và sảng khoái, người ta còncảm thấy tâm đắc và khâm phục tài nghệ vận dụng lối chơi chữ dân gian đậm đàchất nghệ thuật trong tác phẩm của bà“Cái kiếp tu hành nặng đá đeoLàm chi một chút tẻo tèo teoThuyền từ cũng muốn về Tây TrúcTrái gió cho nên phải lộn lèo”Sư hoạnh dâmXét bề mặt ngữ nghĩa của từng từ đều có ý nghĩa, tạo nên một nội dung thốngnhất, hoàn chỉnh. “Lộn lèo” là dây lèo của thuyền buồm bị ngược gió phải lộn ngượctrở lại, “trái gió” là ngược gió. Tuy nhiên khi lái lại, bài thơ lại tạo nên một lớp nghĩakhác, hoàn toàn không liên quan đến nghĩa gốc tự thân nhưng mục đích vẫn là xoáysâu vào nhân vật được nhắc đến. Luận ra nghĩa thứ hai, các hoạt động đó cũng thuộc13về ông sư, bà vãi, chú tiểu… chứ còn ai vào đây? Tài tình ở chỗ những từ ngữ nàyđều mang nghĩa và không quá sống sượng, chớt nhã, khiêu dục…Ở một góc độ khác, sự tài tình của Hồ Xuân Hương thể hiện ở việc dùng cáctừ thuộc cùng một trường từ vựng trong thơ. Bài thơ Khóc Tổng Cóc, trong 28 chữđã có 5 từ chỉ những con vật thuộc loài cóc “Chẫu chàng”, “nhái bén”, “nòng nọc”,“chẫu chuộc”, “cóc”. Bài “Bỡn bà lang khóc chồng” có rất nhiều từ chỉ các vị thuốc“cam thảo”, “quế chi”, “trần bì”, “thạch nhũ”, “quy thân”, “liên nhục”…cả các từchỉ hành động bào chế thuốc, dụng cụ làm thuốc “sao”, “tẩm”, “dao cầu”… Bêncạnh đó, việc vận dụng thủ pháp ẩn dụ càng làm tăng thêm tính biểu tượng, gợi hìnhcho bức tranh với những đường nét cơ bản mà Xuân Hương phác thảo nên. Mượnhình ảnh ốc nhồi hay quả mít để đả phá đám quân tử đạo mạo, tỏ vẻ thanh caonhưng thực chất chuyên đùa bỡn tình cảm của những cô gái nhà lành và thông quađó, nữ thi sĩ cũng thể hiện ước mơ về hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn. “Bánh trôi nước”mà nữ sĩ từng nhắc đến chính là vẻ đẹp hình thể, tâm hồn của người con gái thânphận bé nhỏ, dù cho đời có phũ phàng, xã hội có vùi giập thì “em vẫn giữ tấm lòngson. “Tấm lòng son " là biểu hiện phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ trong xã hộiphong kiến “trọng nam khinh nữ" lúc bấy giờ mà không ai có thể đủ sức làm laychuyển LUẬNHồ Xuân Hương đã thổi một luồng gió mới vào nền văn học viết Việt thể nói, bà là một người phụ nữ không chỉ tài hoa mà còn rất gan dạ, dám nóinhững gì cần nói và nói thẳng, nói thật chứ không vòng vo, né tránh. Ngôn ngữXuân Hương sử dụng rất giản dị, dễ nhớ, dễ đọc, phù hợp với tầng lớp bình chỉ thế, bằng ngòi bút xuất sắc của mình, nữ sĩ đã khéo léo đưa nghệ thuậttrào phúng vào thơ văn, nhằm đem lại niềm vui, tiếng cười cho người đọc và cũngthông qua đó, xã hội với đầy rẫy những bất công mà nạn nhân chính là những người14phụ nữ cũng được tái hiện lên. Bản thân Hồ Xuân Hương cũng là người phụ nữ,cũng chịu kiếp làm lẽ nên càng thấm thía nỗi đau. Chính vì thế, thơ văn Hồ XuânHương mang nội dung chân thực và không chỉ thế, tính nghệ thuật cũng rất đậm nghệ thuật trào phúng của bà cũng vô cùng độc đáo và khác LIỆU THAM Giang, Phiếm Luận về thơ Hồ Xuân Ngọc Minh, Đặc điểm tiếng cười trong thơ Nôm truyền tụng thuộc hiệntượng Hồ Xuân Đỗ Lai Thúy, Vấn đề dâm tục trong thơ Hồ Xuân Đỗ Lai Thúy, Lý giải cái dâm cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tínngưỡng phồn Văn, Bản chất thơ Hồ Xuân Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với cái nhìn nữ quyền Ngọc Thơ, Tiểu luận “Hồ Xuân Hương – Ghẹo cười xuyên thế kỷ”.Nguyễn Thị Ngọc Châu, Luận văn “Vấn đề tính dục trong thơ Nôm Hồ XuânHương dưới góc độ so sánh.”10. Nguyễn Vinh Phúc, Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nhiều tác giả, Hồ Xuân Hươmg – Thơ và đời, 2010.
Cuộc đời và sự nghiệp Hồ Xuân HươngNhà thơ Hồ Xuân HươngTiểu sử nhà thơ Hồ Xuân HươngSự nghiệp văn chương của Hồ Xuân HươngPhong cách văn chương của Hồ Xuân HươngGhi danh và tưởng nhớ nữ thi sĩ Hồ Xuân HươngMột số tác phẩm tiêu biểu của Hồ Xuân HươngTác phẩm Tự tình 2Tác phẩm Bánh Trôi NướcVnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh cùng các bạn bài viết về sự nghiệp và cuộc đời của nhà thơ Hồ Xuân Hương để tìm hiểu và tham khảo giúp các em học sinh lớp 11 hiểu rõ và cuộc đời bà và các tác phẩm nổi tiếng để học tốt môn Ngữ sử nhà thơ Hồ Xuân HươngNhà thơ Hồ Xuân Hương sinh ngày ?-?-1772 tại Tỉnh Nghệ An, nước Việt Nam. Bà sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà Nội, nước Việt Nam. Bà sinh thuộc cung chưa rõ, cầm tinh con giáp rồng Nhâm Thìn 1772. Hồ Xuân Hương xếp hạng nổi tiếng thứ 1607 trên thế giới và thứ 2 trong danh sách Nhà thơ nổi các tài liệu lưu truyền, Hồ Xuân Hương chưa rõ năm sinh năm mất quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nhưng sống chủ yếu ở kinh thành Thăng Long. Nữ sĩ có một ngôi nhà riêng ở gần Hồ Tây Hà Nội bây giờ lấy tên là Cổ Nguyệt đời Hồ Xuân Hương lận đận, nhiều nỗi éo le ngang trái hai lần lấy chồng nhưng đề là lẽ, để đến cuối cùng vẫn sống một mình, cô Xuân Hương đi nhiều nơi và thân thiết với nhiều danh sĩ, có người nổi tiếng như Nguyễn Du…Sự nghiệp văn chương của Hồ Xuân HươngHồ Xuân Hương từng được mệnh danh là “Bà Chúa Thơ Nôm”. Sáng tác của Hồ Xuân Hương gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Theo giới nghiên cứu, hiện có khoảng trên dưới 40 bài thơ Nôm tương truyền là của Hồ Xuân Hương. Nổi bật trong sáng tác thơ Nôm Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ. Nữ thi sĩ còn có tập thơ Lưu hương kí phát hiện năm 1964 gồm 24 bài chữ Hán và 26 bài chữ lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là hiện tượng rất độc đáo nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng, đến ngôn ngữ, hình phẩm của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương là những bài thơ viết bằng chữ nôm, theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật tám câu bảy chữ và thất ngôn tứ tuyệt bốn câu bảy chữ. Một số tác phẩm thơ nôm của bà Bà Lang Khóc Chồng, Bạch Đằng Giang Tạm Biệt, Bài Ca Theo Điệu Xuân Đình Lan, Bánh Trôi Nước, Bọn Đồ Dốt, Cái Quạt, Cảnh Làm Lẽ, Cái Quạt Giấy 1, Cái Quạt Giấy 2... Thơ của Hồ Xuân Hương vừa thanh vừa tục, chủ yếu viết về đề tài người phụ nữ Việt Nam, về thói hư tật xấu của nhà sư, thầy đồ thời phong kiến. Bà cũng có một số bài thơ viết bằng chữ Hán. Đến nay, tác phẩm thơ chữ Hán của bà chỉ còn lại rất ít bài, trong đó có 5 bài thơ đã ông Trần văn Giáp công bố năm 1962 gồm Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Độ Hoa Phong, Trạo ca thanh, Thuỷ vân cách văn chương của Hồ Xuân HươngVăn chương của Hồ Xuân Hương chủ yếu nêu lên thái độ, tâm tư tình cảm của mình nói riêng và người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung. Những câu thơ mang đậm cá tính mạnh mẽ của một người phụ nữ với trái tim khao khát yêu thương, bà dám đứng lên nói những điều người khác không dám nói, dám bộc lộ những điều người khác không dám bộc lộ. Chính văn chương của bà như một cánh cửa mở ra, đưa độc giả của nhiều thế hệ đến gần hơn, am hiểu hơn về cuộc sống cũng như những khát khao của người phụ nữ lúc bấy tài năng của mình, Hồ Xuân Hương đã viết nên nhiều tác phẩm thành công vang dội, với nghệ thuật đặc sắc, cách diễn tả tâm tư tình cảm bộc trực, ta thêm thương cảm, đau xót trước những người phụ nữ tài hoa, xinh đẹp lúc bấy giờ nhưng họ lại không có được hạnh phúc, êm ấm mà đáng lẽ họ được nhận vật trong thơ văn của Hồ Xuân Hương thường là vua chúa, quan lại đến những thư sinh nghiên bút, những kẻ tự xưng là hiền nhân quân tử nhưng làm việc lén lút cũng được Hồ Xuân Hương phơi bày bằng ngòi bút trào phúng độc đáo. Bên cạnh đó, thơ văn của Hồ Xuân hương còn thể hiện ước mơ, khát khao hạnh phúc lứa đôi, muốn có một cuộc sống trần tục thiên về mặt bản năng của chính những nét đặc sắc trên, ta có thể khẳng định, nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương là một trong những tác giả hiếm hoi của nền văn học trung đại Việt Nam vừa thể hiện cá tính mạnh mẽ lại có nhiều tác phẩm nổi tiếng, gây ấn tượng, tiếng vang đến tận ngày nay. Chính từ những yếu tố trên, Hồ Xuân Hương quả thực rất xứng đáng với danh xưng Bà Chúa thơ danh và tưởng nhớ nữ thi sĩ Hồ Xuân HươngHầu hết các thành phố của Việt Nam đều có con phố chính mang tên Bà. Tên bà còn được đặt tên cho một hồ nước ở trung tâm Đà phẩm "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương được lựa chọn dạy trong môn Ngữ văn của các trường Trung học cơ sở tại Việt phẩm "Tự tình II" được lựa chọn để dạy trong chương trình Ngữ văn 11 tại Việt số tác phẩm của Bà được dịch sang tiếng Anh trong cuốn Tinh hoa mùa xuân của John Balaban Copper Canyon Press, 2000, ISBN 1 148 9.Một số tác phẩm tiêu biểu của Hồ Xuân HươngTác phẩm Tự tình 2Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Tự tình 2Hồ Xuân Hương là một trong số ít những nữ thi sĩ tài năng của nền văn học Việt Nam. Bà đã để lại cho đời nhiều tác phẩm nổi tiếng, một trong số đó chúng ta không thể không nhắc đến bài thơ Tự tình 2. Bài thơ đã khắc họa tâm trạng, cảm xúc, thái độ của bà trước cảnh tình duyên hẩm hiu của mình. Thời gian được Hồ Xuân Hương dùng để miêu tả, khắc họa tâm trạng của mình chính là vào đêm khuya, vắng vẻ, tĩnh lặng, khi mà trong không gian chỉ có tiếng trống dồn canh vang lên trong đêm tĩnh mịch, khi mà nữ thi sĩ lẻ loi, đơn chiếc một mình. Thời gian vẫn đang chảy trôi, còn người phụ nữ thì lại chìm đắm trong một cảm giác xót xa, buồn tủi với nỗi cô đơn, lẻ bóng pha chút cay đắng của người phụ nữ lẻ loi trong chính tình cảm của mình với một trái tim khao khát yêu thương. Trong nỗi buồn, nỗi cô đơn ấy người phụ nữ đã tìm đến chén rượu để giải sầu nhưng rượu không những không làm cho bà say mà còn khiến cho bà thêm tỉnh táo hơn, sự bất hạnh của cuộc đời lại hiện ra rõ nét hơn khiến cho người con gái ấy thêm giằng xé, đau đớn hơn. Hồ Xuân Hương đã khéo léo mượn hình ảnh ánh trăng để nói về chuyện tình cảm còn dang dở, chưa được trọn vẹn của mình. Ai cũng mong muốn cuộc sống của mình được trọn vẹn, tròn đầy như ánh trăng, nhưng ánh trăng hiện hữu trước mắt nữ thi sĩ lại là vầng trăng khuyết, cũng giống như bà đang thiếu đi rất nhiều phần sức sống trong tâm hồn mình. Người con gái ấy chơi vơi giữa cuộc đời, giữa thời gian trôi chảy và không gian rộng lớn. Những sinh vật tưởng như nhỏ nhoi, yếu đuối như rêu thành những thứ đầy sức sống, vươn lên đầy thách thức với đời. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ luận đã làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá cỏ cây, cũng là sự phẫn uất của tâm trạng nữ thi sĩ. Trong bối cảnh cô đơn của tác giả, sự tuần hoàn, trôi chảy này dường như thêm trở nên vô nghĩa. “Xuân” ở đây cũng chính là tuổi trẻ của nữ thi sĩ đang trôi đi lững lờ, khao khát tình yêu nhưng không có được tình yêu. Mối tình duyên nhỏ bé “tí con con” của riêng mình nhưng phải san sẻ với người khác khiến cho mảnh tình ấy càng thêm nhỏ bé chẳng còn đáng bao nhiêu để sưởi ấm trái tim thi sĩ. Điều ấy đối với một người bình thường đã là ít ỏi lắm rồi thì với một người bản lĩnh như Hồ Xuân Hương lại càng khó chấp nhận. Bài thơ đã khép lại nhưng cảm xúc cùng cá tính của Hồ Xuân Hương vẫn còn vang vọng trong tâm khảm mỗi độc giả và tạo nên những giá trị riêng biệt cho Bà chúa thơ bài Tự tìnhSoạn văn 11 bài Tự tình Bài IIPhân tích bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân HươngPhân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của Tự tình 2 Hồ Xuân HươngDàn ý phân tích hình tượng người phụ nữ trong bài thơ Tự tình 2Phân tích hình tượng người phụ nữ trong bài thơ Tự tình 2-Trên đây VnDoc đã giới thiệu tới các em Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Hồ Xuân Hương. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Soạn văn 11...Chúc các em học tập sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Lê Hữu TrácTiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Đặng Huy TrứTiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của danh nhân Cao Bá Quát
Bước qua thế kỷ XXI, nhìn lại văn học trào phúng thế kỷ XX vẫn là điều cần thiết và cũng là yêu cầu chính đáng. Tiếng cười của thế kỷ đó tồn tại được là do sự xuất hiện của những cây bút trào phúng sáng giá. Thử hỏi, họ đã cười những gì trong thời đại mà họ đang sống? Tác giả thơ trào phúng Lam ĐiềnTrả ơn đời qua lời thơ châm Nhà thơ trào phúng cự phách Tú Mỡ Người không thích… đùa? Trước hết, "kính lão đắc thọ", xin được mở đầu bằng nhà thơ Nguyễn Khuyến 1835-1909, quê ở Nam Định. Ông xứng đáng là bậc "tiên chỉ" trên vuông chiếu của nền văn học trào phúng thế kỷ XX. Tiếng cười của ông thâm trầm và kín đáo. Tưởng là cười cợt, bông lơn nhưng ẩn sau từng dòng chữ là những giọt nước mắt đau đời. Khi đất nước mất vào tay giặc Pháp, nhân cách lớn của Nguyễn Khuyến là không cộng tác với chúng, lấy cớ mắt lòa. Có lần, ông được mời vào trình diện công sứ Hà Nam, thực chất là để hắn kiểm tra thái độ chính trị. Cũng khăn áo chỉnh tề bước vào dinh, thay vì chào hắn, ông hướng vào mấy cây cột vái mấy cái rồi nói "Lạy cụ lớn ạ!". Mọi người bật cười. Ông xin lỗi mắt lòa, không trông thấy gì rõ cả. Viên công sứ giận tím người, nhưng làm sao bắt bẻ được. Khi chứng kiến Hội Tây được tổ chức hằng năm trên đất nước ta thuở ấy - nhằm mừng ngày cách mạng Pháp ông chỉ thấy "Bà quan tênh nghếch xem bơi trải/ Thằng bé lom khom ghé hát chèo/ Cậy sức cây đu nhiều chị nhún/ Tham tiền cột mỡ lắm anh leo" Hội Tây. Những câu thơ trào lộng này khiến ai đọc cũng ngậm ngùi, cũng tủi nhục, cũng đớn đau khi nhìn lại một giai đoạn bi đát của lịch sử nước nhà. Phải thấm nỗi đau, nỗi nhục ấy, Nguyễn Khuyến mới có thể hạ những câu như từng đường gươm sắc bén. Nhà thơ Tú Xương 1870-1907 là người đời truyền tụng "Kìa ai chín suối Xương không nát/ Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn". Lời tiên đoán ấy không sai. Tú Xương nổi tiếng đến độ, người ta cho rằng đất Nam Định có hai đặc sản "Đọc thơ Xương, ăn chuối ngự". Tú Xương đã để lại một bản lĩnh thơ, một sự nghiệp văn học để tạo nên cốt cách trào phúng và trữ tình - sau này, nhiều người cũng bắt đầu sự nghiệp văn học bằng chữ "Tú" của Tú Xương. Có lẽ, ông là người có nhiều "môn đệ" nhất Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, Tú Quỳ Phan Quỳ, Tú Xơn Tout seul chỉ có một mình - Phan Khôi, Tú Nạc, Tú Sụn, Tú Trọc, Tú Da... rồi Tú Kếu Trần Đức Uyển, Tú Lơ Khơ Nguyễn Nhật Ánh, Tú Hợi Lê Minh Quốc... Nhà thơ Tú Xương. Tiếng cười của Tú Xương sâu cay, phản ánh rõ nét những nhố nhăng của cái xã hội buổi giao thời Pháp-Việt. Chẳng hạn, đây là cảnh lễ xướng danh của khoa thi năm 1897 "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ/ Ậm ọe quan trường miệng thét loa/ Cờ kéo rợp trời quan sứ đến/ Váy lê quét đất mụ đầm ra/ Nhân tài đất Bắc nào ai đó/ Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà". Nghe mà ứa nước mắt. Trong số các "môn đệ" của Tú Xương, người nối danh không hổ danh thầy là Tú Mỡ 1900-1976. Tiếng cười độc đáo của ông là biết kế thừa cái hay của các sư phụ đi trước và từ ca dao, tục ngữ. Điều làm nên tên tuổi Tú Mỡ là ông đã cười rất ác vào cái ông nghị... gật mà trước và sau ông chưa có ai vượt qua nổi! Ông đã vẽ những bức chân dung bằng thơ với đường nét tiêu biểu nhất, không lẫn lộn với ai khác. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong cảnh khuếch trương của các ông nghị trước khi ra bầu cử, ta thấy có giọng châm biếm hài hước của Tú Xương "Lẳng lặng mà nghe họ diễn thuyết/ Công tâm, công ích, lời tâm huyết/ Phen này mở hiệu viết văn thuê/ Dẫu chẳng làm giàu cũng đỡ kiết/ Họ quẳng tiền ra để cạnh tranh/ Nghe đâu mỗi vé một "rồng xanh"/ Phen này có lẽ mưa ra bạc/ Mà nghị viên ta khỏi phỗng sành" Bầu cử. "Rồng xanh" giấy bạc thời Pháp thuộc. Không rõ, phong thổ của từng vùng đất có ảnh hưởng đến tâm tính hay không, chứ giáp tỉnh Nam Định ở phía Nam là huyện Lý Nhân Hà Nam lại có nhà thơ trào phúng nổi tiếng Kép Trà 1873-1923, tên thật Hoàng Thụy Phương, kém Tú Xương 3 tuổi. Hầu như không một quan tham nào ở Hà Nam thoát khỏi ngọn bút phê phán sắc bén của ông. Sự kiện đáng kể nhất của Kép Trà là đã công khai tấn công bọn "áo mão" mị dân trong lễ kỷ niệm thi hào Nguyễn Du, tối ngày 10-8-1924 tại Hội Khai Trí Tiến Đức Hà Nội. Bài thơ được truyền tụng nhiều nhất của ông là thuật lại buổi lễ đó "Mấy chị đào non cười khúc khích/ Một đoàn mặt trắng huýt lung tung/ Tiên Điền, cụ hỡi hay chăng tá?/ Giỗ cụ, hương trầm bỗng thối hung" Hỏi cụ Tiên Điền. Phan Điện 1874-1945 là cây cười tiêu biểu của Hà Tĩnh. Giống như đàn anh Tú Xương, dù ông văn hay chữ tốt, nhưng khoa thi nào cũng… rớt vì phạm trường quy! Người đầu tiên cười vua bù nhìn Bảo Đại có lẽ là Phan Điện. Khi nhà vua ra Bắc, đi ngang qua huyện Đức Thọ Hà Tĩnh cùng với Nam Phương hoàng hậu, quan lại địa phương cho nam thanh nữ tú xếp hàng đầu rồi giàn hương án để rước đón. Con nít trong làng rủ nhau đi xem "mặt rồng" ầm ĩ nên làm đổ một bức tường, đè chết mấy trẻ nhỏ. Trước sự kiện này, Phan Điện có bài thơ sâu cay "Xiếc vùng Đức Thọ có vui không?/ Cóc nhái hôm nay được thấy rồng!/ Gái đạo phát tài cười tủm tỉm/ Trai lương phải tội chạy long đong/ Mề - đay xiết kể ơn hoàng thượng/ Tường đổ thương thay lũ tiểu đồng/ Đố biết vì ai nên nỗi thế?/ Vì quan sở tại khéo tâng công!" Vì ai?. Đi du lịch miền Trung, đến xứ Huế mộng mơ, chắc hẳn chúng ta sẽ nhớ đến hai câu thơ viết về Huế thuở nước nhà còn nô lệ "Núi Ngự không cây cu ngủ đất/ Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời!". Đó là thơ của cây bút trào phúng đất Thần kinh Nguyễn Khoa Vy 1881-1968, hiệu Thảo Am. Tương truyền, thuở nhỏ, có lần ông lẻn vào Tịnh tâm hái trộm trái cây, gặp lúc vua Thành Thái và thị vệ đang ngồi chơi. Biết đây là cậu học trò thuộc dòng khoa bảng Nguyễn Khoa nên nhà vua mới ra đề thử tài. Nhà thơ Nguyễn Khuyến. Làm thơ xong, vua khen hay và thưởng cho vài chiếc kẹo, Nguyễn Khoa Vy nhận ngay rồi quay lưng chạy. Lính lệ bắt lại ghép vào tội vô lễ với Hoàng thượng, Nguyễn Khoa Vy liền đọc bài thơ tạ tội "Đang nghịch không ngờ lại gặp vua/ Còng lưng mà chạy rớt càng cua/ Bây giờ lại được vua ban thưởng/ Cảm tạ đâu nào dám "bonjour"! Không đề. Tiếng Pháp xen lẫn vào bài thơ tiếng Việt thật tự nhiên- cũng là phong cách cười kín đáo, tế nhị của người Huế vậy. Vượt qua đèo Hải Vân vào Quảng Nam, có lẽ ta nên dừng chân lại tâm tình với nhà thơ Tú Quỳ 1828-1926. Thơ trào phúng của ông khá nhiều, tựu trung là đả kích cường hào ác bá và bài trừ mê tín dị đoan... Chẳng hạn đối với những tên Việt gian, cộng tác với giặc Pháp thì ông chưởi xéo qua bài thơ Vịnh con bò khá độc đáo "Vũ trụ không qua đồng cỏ tốt/ Sơn hà khó sánh miếng ăn no/ Thâm sơn ruộng thẳm dơ lưng cạch/ Cắm cổ lôi cày mặc kẻ lo". Đi dần vào phương Nam, ta ắt gặp Phan Văn Trị 1830-1910 không chỉ là một nhà thơ bút chiến số một của Nam kỳ, ông còn là cây bút trào phúng có bản sắc độc đáo. Ông đả kích không khoan nhượng với cái xấu, sự lươn lẹo của bọn Việt gian ngoi lên bằng con đường nịnh nọt giặc Pháp. Hát bội là bài thơ tiêu biểu cho phong cách của ông "Đứa ghẻ ruồi, đứa lác voi/ Bao nhiêu xiêm áo cũng trơ mòi/ Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc/ Đứa nịnh râu đen mấy sợi còi/ Trên đỉnh có nhà còn lợp lọng/ Dưới chơn không ngựa lại giơ roi/ Hèn chi chúng nói bội là bạc/ Bôi mặt đánh nhau cú lại thoi". Còn có cả Học Lạc 1842-1915 nữa, tên thật Nguyễn Văn Học. Dù học giỏi nhưng thi không đậu, lại gặp lúc Pháp thực hiện chế độ giáo dục Pháp - Việt nên ông không tha thiết gì đến việc tiến thân bằng khoa cử nữa, bỏ về Mỹ Tho học nghề làm thuốc Bắc kiếm sống. Ngòi bút của ông tấn công không trực diện bọn hương chức tham nhũng qua các bài thơ vịnh Con tôm, Con trâu, Con chó chết trôi... Và đây là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông, dù viết về Ông làng hát bội nhưng ai cũng biết là Học Lạc ám chỉ ai "Trong bụng trống trơn, mang cổ giữa/ Trên đầu trọc lóc, bịt khăn ngang/ Vào buồng gọi tổ, châu đầu lạy/ Ra rạp rằng con, nịt thắt mang". Hầu như xuyên suốt thế kỷ XX, ở vùng nào trên đất nước ta cũng có những cây cười tiêu biểu. Sau năm 1945 cho đến năm 1975 ở ngoài Bắc nổi lên những cây thơ trào phúng như Xích Điểu, Thợ Rèn, Nguyễn Đình, Sĩ Giang, Lã Vọng, Búa Đanh, Huyền Thanh, Chính Nghĩa, Búa Tạ, Đặc Công Tiếng cười của các cây bút này vẫn nặng về xây dựng lối sống mới và chủ yếu là đánh kẻ thù xâm lược bằng những thủ pháp sắc sảo, có ấn tượng. Xin giới thiệu một, hai cây bút tiêu biểu nhất, chẳng hạn, nhà thơ Xích Điểu 1913-2003, người Hà Nội. Ngòi bút của ông tập trung châm biếm kẻ thù và phê phán những biểu hiện tiêu cực trong xã hội. Bài thơ Chống tiêu cực làng ta, ông phê thẳng tay "Tưởng đâu thuở trước bọn văn nô/ Rơi rớt thời nay vẫn sót lò/ Anh bảo bút đây vì tập thể/ Thật ra bút bợ cá nhân to/ Bút bic anh xài đỏ đỏ đen/ Tô màu thành tích nỏ cần xem/ Chỉ cần đối tượng anh tâng bốc/ Luôn nhớ anh bằng những tiếng khen"... Nhà thơ trào phúng Thợ Rèn, 1923-2008 tự nhận viết trào phúng để phục vụ nhiệm vụ chính trị kịp thời, phê phán cái xấu trong nội bộ. Một bài thơ tiêu biểu của Thợ Rèn là Tết Tây "Chúc trước tết Tây để tết ta/ Các quan liêm chính bớt ăn quà/ Nể lòng cấp dưới nên khôn nỡ/ Lòng vả lòng sung ta với ta/ Gần tết ngược xuôi khắp mọi miền/ Xe hơi rầm rập phố Trường Yên/ Thời trân thức thức trên xe ấy/ Biết chở về đâu? Lẽ tất nhiên!". Ngoài ra còn có thể kể thêm các anh tài khác như Bút Châm, Hạt Tiêu, Ong Mật, Mực Đỏ, Dương Quân, Thiện Chí… Về các cây bút trào phúng miền Nam 1954-1975, hầu như chưa có chuyên luận nào đề cập đến. Có thể kể đến Tú Trọc, Hà Thượng Nhân, Cả Tếu, Ch. Số Zách, Trạng Đớp, Tú Kếu, Cung Văn, Tú Ngang... Thơ trào phúng của họ có lúc dám cà khịa cả chính quyền Sài Gòn. Và tất nhiên đã thơ trào phúng thì họ không thể bỏ qua các sự kiện thời sự. Lướt qua thế kỷ thơ trào phúng của thế kỷ XX dẫu do dung lượng một bài báo chưa giới thiệu được trọn vẹn nhưng cũng đủ thấy cái kho kiến văn, cái tầm ngạo nghễ của trí thức nước ta quả thật là rộng lớn vô biên.
thơ trào phúng hồ xuân hương